Hä T£N: TRÇN THÞ LI£N MÔN TRIẾT BÀI : SÊMINA NHÓM: 3 LỚP: KT 44
ĐÒ bµi: sªmina 2 chuyªn §Ò 1 Dùng những kiến thức trong chương III: ”Chủ nghĩa duy vật lịch sử” để phân tích nguyên nhân của ”Hiện trạng đói nghèo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền Bắc hiện nay ở nước ta” và phân tích những giải pháp xoá đói giảm nghèo của nhà nước ta thể hiện trong Chương trình 135 và Nghị quyết 30A của Chính phủ. -
Thuyết trình nội dung phân tích trên bằng trình chiếu powerpoint
Gợi ý 1. Nêu khái khái quát những biểu biểu hiện đói nghèo ở vùng này? này? 2. Từ các yếu tố của tồn tại xã hội thì có thể chỉ ra những nguyên nhân nào của hiện trạng đói nghèo và giải thích những giải pháp nào trong chương trình 135 và Nghị quyết 30A. 3. Từ các yếu tố của KTTT thì có thể nói đến những nguyên nguyên nhân nào của hiện trạng đói nghèo và giải thích những những giải pháp pháp nào trong chương trình 135 và Nghị quyết 30A.
BÀI LÀM : * Ph©n Ph©n tÝch tÝch gi¶i gi¶i ph ph¸p ¸p xãa xãa ®ãi ®ãi gi¶m gi¶m ng nghÌ hÌo o cña cña níc níc ta thÓ hiÖn hiÖn trong ch¬ng tr×nh 135 vµ nghÞ quyÕt 30A cña ChÝnh phñ Ngày 27/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Điểm nổi bật của gói giải pháp tạo đột phá về xóa đói nghèo đối với 61 huyện là các chính sách cụ thể về hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Chính phủ sẽ hỗ trợ 200.000 đồng/ha/năm tiền khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, hỗ trợ lần đầu giống cây lâm nghiệp từ 2 - 5 triệu đồng/ha. Các hộ nghèo nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, được giao rừng và giao đất để trồng rừng sản xuất còn được trợ cấp 15kg gạo/khẩu/tháng trong thời gian chưa tự túc được lương thực, được hỗ trợ 5 triệu đồng/ha/hộ để tận dụng tạo đất sản xuất lương thực trong khu vực diện tích rừng nhận khoán... Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay tại ngân hàng thương mại nhà nước để trồng rừng sản xuất, để phát triển sản xuất nông nghiệp, đầu tư cơ sở chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản... 1
Hiện cả nước có 61 huyện thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, chiếm khoảng 18% tổng số hộ ở nông thôn vào cuối năm 2007, trong đó trên 90% là đồng bào dân tộc thiểu số.
ChiÒu 22/4/2010 phã Thñ tíng Thêng trùc ChÝnh ph ủ NguyÔn Sinh Hïng đ· chñ tr× cuéc häp v ớ i c¸c Bé, ngành v ề tiến độ triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP (NQ30a) của ChÝnh phủ đối vớ i 61 huyện nghÌo trªn cả nướ c. I)
Nêu khái quát những biểu hiện đói nghèo ở vùng này?
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, “bị” quốc tế đánh giá là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Mặc dù những năm cuối của thế kỷ XX, đặc biệt dưới tác động của công cuộc đổi mới hơn một thập niên trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng mừng với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tương đối cao (6-7%, đứng thứ hai sau Trung Quốc), đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhưng do xuất phát điểm quá thấp, vốn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, cộng với điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra, hơn nữa trong lịch sử phát triển của đất nước, dân tộc ta luôn phải chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là các cường quốc hùng mạnh như Pháp, Mỹ, đã gây tổn thất rất lớn, kéo sự phát triển của nước ta lùi lại hàng thế kỷ. Do vậy tới nay, bộ mặt kinh tế-xã hội của nước ta chưa được mấy sáng sủa, tỷ lệ đói nghèo còn cao (đến 7/1998, theo Tổng cục thống kê, cả nước còn 17,4% hộ đói nghèo, nhưng theo tính toán của Ngân hàng thế giới(WB) thì con số đó còn cao hơn nhiều). Mặt khác, đến nay vẫn còn 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động của cả nước sống ở khu vực nông thôn và như vậy, vấn đề nguồn nhân lực, vật lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên nước ta gắn với vùng nông thôn rộng lớn. Tuy nhiên, chúng ta chưa chú trọng đầu tư phát triển một cách thoả đáng đối với khu vực nông thôn dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng. Kết quả tất yếu là số hộ đói nghèo tập trung phần lớn ở địa bàn nông thôn (trên dưới 90%), và con số ấy càng cao hơn đối với địa bàn nông thôn miền núi, trong đó cao nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc Cái đói cái nghèo phản ánh từ những cái cụ thể nhất là miếng cơm manh áo. Khi mà những nhu cầu cơ bản của con người chưa được đáp ứng thì họ, những con người “một nắng hai sương” ấy không thể lo nghĩ về vấn đề lớn những lao hơn, đó là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ta tươi đẹp hơn, giàu mạnh hơn. Nói theo khía cạnh khác, muốn đất nước ta phát triển, tăng trưởng bền vững, vấn đề thứ nhất là xoá đói giảm nghèo. Một chính trị gia đã nói: “Sự nghèo đói, dối nát, bệnh tật của một quốc gia còn tệ hại hơn cả nỗi nhục mất chủ quyền”, và trên thế giới này, không ai lại muốn sống trong “sự sỉ nhục”. Chính vì vậy, nhân dân Việt Nam, những người con cháu Lạc Hồng, đã, đang và sẽ ngày một quyết tâm hơn phấn đấu xây dựng một đất nước giàu mạnh, “xã hội chủ nghĩa”, có khả năng sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để đánh giá một đất nước phát triển hay không? một trong những tiêu chuẩn để đánh giá đấy chính là cuộc sống của ngư êi dân hiện nay §¶ng vµ nhµ nước ta cũng đang c ã chñ tr¬ng 2
vµ chú trọng đến vấn đề giải quyết nạn đói nghèo. Ngoài những chỉ số thống kê về tû lÖ c¸c hé nghÌo ra hiên nay ë một số tỉnh phía bắc ở nước ta cuộc sống của người dân còn rất là khó khăn:Tình trạng này được biểu hiện r â nhÊt ở một số tØnh nh sau: Qu¶ng Ninh, L¹ng S¬n, Cao B»ng, B¾c K¹n, Th¸i Nguyªn, Yªn B¸i, Lào Cai, Hà Giang và Tuyªn Quang….riªng miÒn B¾c chiÕm 61% Những biểu hiện đói nghèo ở vùng miền Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tû lÖ nh÷ng hé nghÌo thÓ hiện nµy là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đến 260.000 đồng/người/tháng.
VÝ dô ngoµi bµi: Tây Nguyên: Năm 2002, trên 50% dân số ở vùng này sống trong tình trạng nghèo và 30% dân số có mức chi tiêu dưới ngưỡng nghèo. Dân tộc thiểu số ở vùng này chiếm 1/5 tổng dân số là dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Một trong những khó khăn trong phát triển kinh tế ở Tây Nguyên là dân số bị biến động do trào lưu di cư từ năm 1975 đến nay, hiện vùng này có đến 60% dân số là dân di cư. Đây chỉ là một trong những số ít mà tình trạng nghèo ở việt nam mà chúng em có thể nói qua
II) Từ các yếu tố của tồn tại xã hội thì có thể chỉ ra những nguyên nhân nào của hiện trạng đói nghèo và giải thích những giải pháp nào trong chương trình 135 và Nghị quyết 30A. Nói đến một đất n íc nghèo thì có rất nhiều nguyên nhân, đặc biệt là việt nam chúng em xin lấy một số các yếu tô dẫn đến tình trạng nghèo ở nước ta như:
Cã 2 nguyªn nh©n chÝnh Nguyên nhân khách quan : - Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị giảm sút do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài. 3
- Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm. - Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất. - Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao. - Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành phố. - Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước
Nguyên nhân chủ quan như: •
•
•
•
•
•
Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ nghèo tăng lên. Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp. Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng. Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước, Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu, chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc cao. 4