Lời Bạt
G
andhara, phiên âm theo Hán Việt là Càn-đà-la (乾陀羅), là một vương quốc cổ vùng Tây-Bắc Pakistan và phía Đông Afgahistan ngày nay. Tên của vương quốc này có gốc từ Phạn Ngữ, ghép bởi từ “Gand” có nghĩa là “hương hoa” với từ “hara” có nghĩa là “vùng đất”. Gandhara tức là vùng đất hương hoa bởi khi vương quốc này còn tồn tại nơi đây là miền cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa lá. Nhiều cứ liệu cho thấy vương quốc này từng tồn tại vào Thiên Niên Kỷ thứ nhất trước Công nguyên (tức trong khoảng thời gian trước chúa Jesus giáng thế 1.000 năm). Cứ liệu ghi nhận sớm nhất vương quốc này là kinh Rig-Veda (tức Lê-câu Vệ-đà 棃俱吠陀 mà Hán Việt dịch là Tán Tụng Minh Luận), xác định vùng đất này nằm ở Tây-Bắc Ấn Độ cổ đại (bao gồm Pakistan ngày nay). Bộ kinh Vệ Đà thứ hai, Atharva Véda (tức A-thát-bà Vệ-đà 阿闥婆吠陀, Hán Việt dịch thành Nhương Tai Minh Luận), ghi chép mối quan hệ giữa vương quốc này với vùng đất Mujavants. Như chúng ta đã biết, 4 bộ kinh Vệ-đà rất cổ, ước lượng khoảng 3000-4000 năm tuổi, chí ít cũng trên 2000 năm tuổi. Dĩ nhiên các bộ kinh này thuở đầu truyền tụng bằng miệng nên có thể trong quá trình đó có những bổ sung và sửa đổi, nhưng như thế thôi cũng đủ chứng minh Gandhara là một vương quốc cổ. Do đặc điểm địa chính trị như thế, Kandara là nơi giao lưu các nền văn hóa vùng Trung Á: Ấn Độ, Ba Tư, và La-Hy. Đồng thời cũng là vùng đất tranh chấp của những thế lực quân sự chính trị lớn ở khu vực này. Lịch sử vùng đất Kandhara ghi dấu nhiều cuộc xâm lược, lược khảo cho thấy: Khoảng năm 520 - 326 trước Công nguyên: bị Ba Tư cai trị; Năm 326 trước Công nguyên: Alexandre Đại Đế chiếm đóng Gandhara làm bàn đạp chinh phục châu thổ sông Hằng (Gange). Khoảng năm 305 - 180 trước Công nguyên: nằm trong Đế Quốc to lớn Maurya, do Hoàng Đế Chandragupta khai sáng. Giữa thế kỷ thứ III trước Công nguyên: vua A-dục (Ashoka - 273-232 trước Công nguyên) truyền Đạo Phật vào. Gandhara lúc ấy phụ thuộc vào xứ Taxila. Khoảng năm 185 - 97 trước Công nguyên: bị vương quốc Ấn-Hy Lạp cai trị; Khoảng năm 97 - 7 trước Công nguyên: bị người saka đô hộ. Khoảng năm 7 - 75 sau Công nguyên: người parthe (Hán Việt dịch là người An Tức) xâm chiếm và hình thành vương quốc Ấn-Parthe. Khoảng năm 75 – 230 sau Công nguyên: sáp nhập vào Đế Quốc Kouchan. Khoảng năm 230 – 440 sau Công nguyên: nằm trong Đế Quốc KouchanoSassanides Khoảng năm 450 – 565 sau Công nguyên: bị người Shvetahûna (còn gọi là người Hung Nô Trắng) xâm lăng. Khoảng năm 565 – 644 sau Công nguyên: là vương quốc Nezak, triều thuộc Kapisa và Udabhandapura.
Đức Chính
3
Khoảng năm 650 – 870 sau Công nguyên: là vương quốc Turkshahi, triều thuộc Kaboul. Đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh có ghé sang vùng đất này, sư ghi nhận: “Vương quốc Kandhra từ Đông sang Tây trải dài 1.000 dặm, từ Bắc chí Nam 800 dặm. Đông giáp sông Sin (tức sông Ấn). Đất đai trù phú nhiều ngũ cốc và hoa quả. Kinh đô là Purushapura (tức Peshawar ngày nay) có chu vi đến 40 dặm”. Đất nước giàu đẹp như thế, lại nằm ngay cửa ngỏ các nền văn minh có tiềm lực quân sự lớn nên văn hóa vương quốc Gandhara rất đa dạng về sắc thái. Chính vì thế khi vua A-dục truyền bá Phật giáo đến nơi này, tôn giáo này có nhiều cải biến thành giáo phái ngày nay gọi là Phật giáo Hy Lạp, đồng thời dòng Đại Thừa cũng qua con đường này để phát triển (nên còn gọi là Phật giáo Bắc truyền) trước khi qua đến Trung Hoa và lan tỏa vào các nước chịu ảnh hưởng của nước này như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Chúng ta hẳn còn nhớ một trong những nhà sư đầu tiên dịch kinh sách truyền vào Trung Hoa là Chi Sấm (支谶), người gốc xứ Kushan1 (Hán Việt phiên là xứ Quý Sương, xứ này còn có tên Hán Việt là Nguyệt Chi). Theo khảo cứu của một số học giả, kinh đầu tiên chuyển qua Hán tự có thể là bộ kinh Tịnh Độ bao gồm Vô Lượng Thọ Kinh, A-di-đà kinh và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Điều này cho thấy tư tưởng Tịnh Độ có thể được khai sinh từ vùng đất này hay chí ít đã triển khai tư tưởng Tịnh Độ của Ấn Độ thành một hệ phái Phật giáo. Phật giáo do vua A-dục sai phái bộ truyền đến đây dần dà phát triển thành một cái nôi không chỉ về mặt tín ngưỡng mà còn về văn hóa Phật giáo. Từ trung tâm này Phật giáo một hướng truyền qua Hy Lạp, một hướng đi vào Tây Tạng và một hướng đi qua Trung Hoa. Theo truyền thống “vạn pháp tùy duyên” của Phật giáo, các chi phái này dung hợp với văn hóa và tín ngưỡng bản địa để cải biến dần. Nghệ thuật Phật giáo cũng vì thế mà có những sắc thái đa dạng như hình tượng “Phật đứng” Hy Lạp ở trên: chiếc áo cà sa phảng phất y phục các triết gia Hy Lạp cổ đại. Hướng truyền lên Tây Tạng hòa cùng Bôn Giáo bản địa để hình thành Lạt Ma Giáo (Phật Giáo Tây Tạng) và hướng đi về phương Đông được bổ sung vào tư tưởng nhập thế theo truyền thống triết học Nho giáo cho ra hình thái Bồ Tát cứu đời và dẫn dắt chúng sinh cùng ra khỏi bể khổ. Những thay đổi này càng ngày càng biệt hóa khỏi Phật giáo nguyên thủy thời Đức Phật tại thế. 1
Kushan là nước từng đô hộ Gandhra.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
4
Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Con đường truyền pháp đó được Bách Khoa Thư Phật Giáo (Encyclopedia of Buddhism2) biểu diễn thành bản đồ sau đây:
Văn hóa Phật giáo vì thế cũng có những thay đổi. Các nhà nghiên cứu nhận thấy nghệ thuật Phật giáo cổ xưa ở Gandhara hòa trộn nghệ thuật của Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, và Ấn Độ. Dòng nghệ thuật này bắt đầu phát triển vào thời cai trị của người Parthe (năm 50 trước Công nguyên đến năm 75 sau Công nguyên), thăng hoa vào thời đô hộ của người Kushan suốt 5 thế kỷ (từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên). Vào thời kỳ này Con Đường Tơ Lụa đã phát triển, các thương nhân là tác nhân truyền bá các nên nghệ thuật đi xa hơn. Văn hóa Gandhara, nhất là nghệ thuật điêu khắc, cũng theo đó mà lan rộng đến tận Đôn Hoàng, trung tâm Phật giáo Trung Hoa đồng thời là cửa ngỏ của nước này hướng về phía Tây. Thời kỳ phồn vinh đó để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật rất giá trị. Đáng tiếc sau đó suy tàn và bị hủy diệt bởi sự xâm lấn của người Shvetahûna (Hung Nô Trắng). Nhưng những gì còn lại và cả những di chỉ khảo cổ phát lộ được cho phép chúng ta đi đến kết 2
Do Robert E. Buswell chủ biên, ISBN 0-02-865719-5
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính
5
luận: có một nền nghệ thuật Phật giáo mang phong cách Gandhara. Đáng buồn, một trong những di sản Phật giáo Gandhara được xếp vào di sản vật thể thế giới lại bị Taliban phá tan ngay vào thời đại văn minh ngày nay: tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan.
Sự kiện này gây phẫn nộ cho nhiều người, cả trong và ngoài giáo hội Phật giáo. Nhưng dù sao chúng ta vẫn còn chút an ủi: Viện Bảo Tàng Peshawar vẫn còn bảo tồn khá nhiều chứng tích về một nền văn hóa Phật giáo. Một trong những di sản đó là những bức phù điêu khắc họa cuộc đời Đức Phật Thích Ca. Xót xa với những gì đã mất tất hẳn trân trọng những gì còn sót lại. Vì thế xin mạo muội trình bày “Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara” đang cất giữ tại bảo tàng này như một chút hoài niệm. Cẩn chí Đức Chính
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
6
Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
1.- Giấc mơ của Hoàng Hậu Maya Truyền thuyết Phật giáo kể rằng: Hoàng Hậu Maya mơ thấy có ông voi trắng húc vào bụng. Vua Tịnh Phạn triệu tập quần thần giải đoán giấc mộng, nhưng không ai giải đoán nổi.
Nguyên lai, ông voi trắng đó chính là bồ tát Tất-đạt-đa (Shiddartha) đang ngự trên cung trời Đâu Suất (Tusita) hóa thành. Trong giấc mơ Hoàng Hậu Maya thấy ông voi trắng 6 ngà này chui vào trong bụng, ngày hôm sau thuật lại việc này cho vua Tịnh Phạn (Shadudana). Vua cho vời đạo sư Bà-la-môn Rishi Asita (A-tư-đà Tiên Nhân3) đến thỉnh ý. Nhà hiền sĩ này đoán rằng: Hoàng Hậu sẽ sinh một hoàng nam, sau này hoặc sẽ thành một chiến binh vĩ đại hoặc là trở thành bậc Đạo Sư của muôn người. Bức phù điêu dưới đây tả cảnh Hoàng Hậu Maya ngủ trên long sảng trong cung điện, bên dưới có các nữ tỳ chực hầu giấc ngủ. Cung điện được biểu trưng bằng vòm cung phía trên long sàng, và bên trái có nữ tỳ đứng chống nạnh canh gác. Trong bức chạm này ông voi được mô tả có vầng hào quang bao phủ đang tiến vào trong bụng Hoàng Hậu Maya, bên trên có chư thiên hộ giá. 3
Truyền thống Ấn Độ gọi các đạo sư tu hành trong rừng sâu là tiên nhân (rishi).
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính
7
2.- Giải mộng Bức điêu khắc “Giải Mộng” khắc họa hình ảnh vua Tịnh Phạn ngồi ở giữa, trên ngai vàng có chạm trổ và chân đặt lên bệ đá có họa tiết hoa sen. Bên trái đức vua là tiên nhân Asita và bên phải là Naradatha, cô cháu gái của tiên nhân.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
8
Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Vua Tịnh Phạn quấn khăn turban kiểu hoàng tộc, mặc hoàng bào có rất nhiều họa tiết trang trí, đeo hoa tai, vòng cổ, và vòng tay. Đằng sau ba nhân vật này là hai người lính hầu, lính hầu phía bên tiên nhân bị che khuất còn người lính còn lại được phác họa đầy đủ trang phục. Một bức phù điêu khác mô tả cảnh này, với sự tham dự của Hoàng Hậu Maya.
Bức chạm này thể hiện toàn cảnh một buổi tiếp kiến triều nghi với khung cảnh là hoàng cung của vua Tịnh Phạn. Cung điện được bâng đỡ bằng hàng cột theo mô thức Indo-Corinthian4 với những vòm cung ở cửa ra vào, phần mái trang trí chùm hoa lá chạy dài. Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Maya ngồi trên ngai vàng ở giữa, tiên nhân ngồi bên phải Vua và Hoàng Hậu. Bên trái có hai nữ tỳ đứng hầu. Nhà vua đặt một tay trên vai phải của Hoàng Hậu, còn Hoàng Hậu tay phải đặt choàng qua tận ngực trái và tay trái cầm những cành hoa. Tiên nhân ngồi trên ghế thấp hơn hướng mặt về phía Nhà Vua và Hoàng Hậu.
4
Corinthia là một đô thị tự trị của Hy Lạp thời cổ, có thời kỳ cùng Ấn Độ hình thành vương quốc Ấn-Corintha cai trị Gandhara.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính
9
3.- Phật Đản Sinh Một bức điêu khắc thể hiện Hoàng Hậu Maya đứng ở giữa, tay phải vươn lên nắm lấy cành cây Sala. Bên trái có người em của Hoàng Hậu là Ba-xà-ba-đề5 (摩訶波闍 Mahaprajaprati) đứng đỡ vai. Hoàng Hậu chỉ có y phục từ dưới rốn trở xuống. Xung quanh là chư thiên đến phò trợ.
Bên phải Hoàng Hậu là trời Đế Thích (Indra) mở khăn đội đầu ra để đón nhận Phật sơ sinh vào đó, phía sau là Đế Thiên (Brahma, còn gọi là Phạm Thiên) cùng chư thiên khác chắp tay cúi đầu kính cẩn đón chào Phật Đản Sinh. Bên trái, phía sau Ba-xà-ba-đề có một thị nữ đang cầm xô nước. Ngoài Hoàng Hậu các phụ nữ khác đều mặc y phục phủ toàn thân từ trên xuống. Một tác phẩm khác trình bày cảnh thái tử Tất-đạt-đa đản sinh ở vườn Lâm-tì-ni (Lumbini). 5
Sau khi Hoàng Hậu Maya băng hà, vua Tịnh Phạn kế tịc với người dì này để nuôi dạy thái tử Tất-đạt-đa.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
10 Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Cảnh này Hoàng Hậu Maya cũng đứng ở giữa, chân bắt tréo nhau, bàn tay phải cũng vói níu cành cây sala trong khi tay trái choàng ôm vào vai Ba-xà-ba-đề. Hoàng Hậu cũng chỉ bận y phục ở phần dưới, nhưng đầu có đội khăn, đeo vòng ở cổ tay và cổ chân. Trời Đế Thích (Indra) đứng bên phải Hoàng Hậu, ở trần và để chân không. Phía sau Đế Thích là thần Đế Thiên (Btrahma) tay trái cầm một cái bình và tay phải để lên vai phải của mình. Ba-xà-ba-đề bận y phục kín người, đầu đội khăn, hướng mặt về phía Hoàng Hậu. Phía sau Ba-xà-ba-đề có hình phụ nữ xách xô nước. Bên trên bức chạm này trang trí nhiều cành là của cây sala. Qua hai bức điêu khắc trên đều thấy Hoàng Hậu Maya đản sinh thái tử Tất-đạt-đa ở tư thế đứng, tay níu cành cây sala để chịu đựng. Đó là mô tả sự Đản Sinh của Đức Phật từ bên hông phải của Hoàng Hậu Maya, người đón đỡ sự đản sinh chính là trời Đế Thích. Trong hình thái này, trời Đế Thích được mô tả có vị trí ngôi vị cao hơn Đế Thiên, chứng tỏ vào thời này ở tín ngưỡng thần sấm sét Indra (Phật giáo gọi là Trời Đế Thích) rất được sùng mộ. Tín ngưỡng Tam Vị Brahma-Vhisnu-Shiva6 đóng vai trò thứ yếu. Thần Indra (Đế Thích) vốn gốc của người Aryan, còn tam vị là quan niệm sinh sinh diệt diệt của dân tộc Ấn bản địa sống bằng nông nghiệp ở lưu vực sông Ấn và sông Hằng. 6
Hán Việt dịch và phiên âm là Phạm Thiên, Tỳ-thấp-nô và Thấp-bà.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính 11
Điêu khắc cổ Gandhara còn ghi chép bằng hình ảnh truyền thuyết sự Đản Sinh của Đức Phật làm ba cõi vui mừng như ở bức hình sau:
Chư thiên và các thiên nữ ca múa mừng Đức Phật Đản Sinh. Các tư thế múa bước chéo chân, uốn tay rất dễ nhận ra nguồn gốc Ấn mà ta có thể kiểm chứng hình ảnh này ở dân tộc Khmer bên cạnh chúng ta.
4.- Tắm Phật Cho đến đây truyền thuyết Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara giống hệt kinh sách chúng ta đã tham học. Nhưng tình tiết tắm Phật có khác đôi chút.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
12 Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Chúng ta vốn quen truyền thuyết khi Phật Đản Sinh có 9 con rồng (thật ra là rắn thần) lên phun nước tắm Phật. Một bức phù điêu Gandhara mô tả khác: Phật sơ sinh được tắm trong bồn ba chân, có hai nữ tỳ quỳ hai bên nâng giữ. Hai vị trời Đế Thích và Phạm Thiên đứng phía sau, tay phải cầm hai gáo tròn rưới tắm cho Phật, còn tay trái trời Đế Thích cầm kim cương chữ để tạo ra sấm sét. Chư thiên khác chắp tay kính cẩn. Một bức điêu khắc khác chỉ mô tả hai vị trời Đế Thích và Phạm Thiên đứng hai bên rưới nước tắm Phật, Phật sơ sinh tự đứng trong cái bồn 3 chân.
Lần lượt đứng nên trái và phải của Đức Phật là Đế Thích và Phạm Thiên. Y phục của Phạm Thiên (bên phải Đức Phật) có nét hao hao y phục các triết nhân Hy Lạp cổ đại. Trời Đế Thích luôn luôn thấy có cầm kim cương chữ tạo sấm sét ở tay trái. Cả ba đều có vòng hào quang ở trên đầu. Cả hai tác phẩm này đặc biệt có những cây cột theo phong cách kiến trúc Corinthe, tức việc tắm Phật không diễn ra ở vườn Lâm-tì-ni mà ở trong cung điện. Đây là điểm khác biệt thứ hai so với truyền thuyết chúng ta hằng biết. Ngoài ra còn thấy phù điêu Tắm Phật khác không có hình tượng Đế Thích và Phạm Thiên. Việc “Tắm Phật” ở phù điêu này cũng diễn ra trong cung điện: Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính 13
Phù điêu này kể về truyền thuyết hai vị trời Nanda và Upananda. Hai vị này quỳ bên bồn tắm của Đức Phật, một vị phun nước nóng và một vị phun nước lạnh để tắm Phật. Xung quanh có chư thiên khác đứng chứng giám.
5.- Bảy Bước Chân Đầu Tiên Sự tích Đức Phật có thuật sau khi mộc dục (tắm rửa) xong, Ngài bước đi bảy bước, mỗi bước có một đóa sen từ dưới đất nở ra để nâng đỡ chân Phật. Khi bước đi một tay Ngài chỉ thiên (hướng lên trời) một tay chỉ địa (chỉ xuống đất) tuyên xưng: “Thiên Thượng Thiên Hạ Độc Tôn”7. Thật ra truyền tụng câu tuyên xưng trên còn thiếu một vế, Tứ Phần Luật (Phẩm Thọ Giới, quyển 4) chép nguyên câu đó là “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, nhất thiết thế gian, sinh lão bệnh tử” có nghĩa: Trên trời dưới đất chỉ duy nhất có Ta trên thế gian này hiểu tuyệt đối về (diệu đế của) sinh, lão, bệnh, tử. Việc truyền tụng có sai sót nên thành ra ý nghĩa của câu tuyên xưng bị hiểu sai đi. Trong bộ sưu tập ở Viện Bảo Tàng Peshawar có lưu giữ một số di chỉ về tích này. 7
Khắp trên trời dưới đất duy chỉ có ta là tôn quý hơn cả.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
14 Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Trong phù điêu này Đức Phật không biểu hiện “tay chỉ thiên, tay chỉ địa”, nhưng có lẽ câu tuyên xưng là có vì trong Tứ Phần Luật (lần Kết Tập thứ 2 tức trước niên đại tác phẩm này rất lâu) từng nhắc đến. Trong hình này trên đầu Đức Phật có thể hiện tỏa hào quang, trời Đế Thích đứng bên trái cầm kim cương chữ ở tay mặt, còn trời Phạm Thiên đứng bên phải tay cầm bình nước. Hai bên vẫn có những cây cột, tức đang ở trong cung điện.
6.- Học Hành Theo truyền thuyết 7 ngày sau Đức phật Sơ sinh được đặt tên Tất-đạt-đa (Siddharatha có nghĩa là Mong Ước Thành Tựu) và 15 ngày sau Hoàng Hậu Maya qua đời. Các phù điêu ở Gandhara không mô tả cảnh Hoàng Hậu tạ thế, chỉ có những bức phù điêu thể hiện lời chiêm đoán của tiên nhân Asita (A-tư-đà). Từ lời chiêm đoán này vua Tịnh Phạn mơ ước tất-đạt-đa trở thành người kế vị toàn tài nên triệu tập tất cả các danh sư về dạy dỗ thái tử. Dưới đây là bản chạm khắc cảnh tiên nhân Asita chiêm đoán số mệnh của thái tử Tất-đạt-đa cho Vua và Hoàng hậu nghe. Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính 15
Bức này bị vỡ một phần ở trên nên không thấy phần đầu của Vua và Hoàng Hậu. Tiên nhân Asita ngồi bên trái bức chạm. Vua Tịnh Phạn quyết tâm biến Thái Tử thành một minh quân nối ngôi trị vì Ca-tỳla-vệ hơn là trở thành một đạo sư. Vua cho mời những vị thầy giỏi nhất trong nước về huấn luyện cho thái tử cả văn lẫn võ.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
16 Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Thái tử ngồi trên con cừu đực, trên đầu có quầng hào quang. Xung quanh có thị vệ theo hầu. Một trong những nhà thông thái được thỉnh dạy Thái Tử là Visvamithra (Hán Việt là Chúng Hữu Tiên Nhân 众友仙人, nghĩa là Tiên Nhân Bạn Của Mọi Người). Visvamithra là nhà thông thái, am tường Vệ-đà và các ngành khoa học cổ của Ấn Độ.
Ở bức chạm này Thái Tử ngồi bên phải, Visvamithra ngồi bên trái. Tay Tiên Nhân cầm một cuốn cổ thư. Đằng sau là người hầu của Thái Tử.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính 17
Cảnh này Thái Tử ngồi giữa, trên tay có cuốn cổ thư. Bên phải Ngài là Visvamithra ngồi giảng giải.
7.- Thi Tài Tương truyền Thái Tử Tất-đạt-đa thông minh đỉnh ngộ, học một biết mười. Chẳng mấy chốc Ngài văn võ toàn tài, không ai địch lại. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng mở các hội thi để kiểm tra tài học của Thái Tử.
Bức hình này thuật lại việc Thái Tử thi tài cùng người em họ Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) và người em cùng cha khác mẹ A-nan-đà (Ananda). Cuộc thi này do cha của Yasudhara (Da-du-đa-la 耶輸多羅) là Dandapani tổ chức để kén rễ. Đến ngày thi tài, một con voi ti lớn được mang vào thành. Đề-bà-đạt-đa trổ tài dùng cung tên bắn chết con voi, đến lượt A-nan-đà dùng sức mạnh xô xác con voi ra ngoài thành. Còn Thái Tử thì khiêng con voi đó đi qua 7 vòng thành.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
18 Cuộc Đời Đức Phật Qua Điêu Khắc Cổ Gandhara
Ở bức chạm trên người đứng bên phải là Đề-bà-đạt-đa ở tư thế giương cung, bên trái là cảnh A-nan-đa kéo xác con voi. Nhân vật ở giữa là Tất-đạt-đa dùng tay nâng con voi lên. Mút bên phải là cây cột đá tượng trưng cho kinh thành.
Nhiều cuộc thi tài khác nhau được tổ chức, trong đó có môn đấu vật, lần nào Thái Tử cũng chiến thắng tất cả các đối thủ khác. Trong hình hai đấu thủ đang dùng thế khóa đòn nhau. Ở bên phải có người cầm dùi trống cho thấy cuộc đấu diễn ra trong nhịp trống.
8.- Cuộc Sống Trong Cung Điện Từ lời chiêm đoán của tiên nhân Asita, nhà vua Tịnh Phạn quyết không để Thái Tử Tất-đạt-đa phải nhìn thấy các cảnh khổ đau của con người mà sinh lòng ra rời thế tục xuất gia đi tu. Mọi cảnh trí trong cung điện của Tháu Tử đều là cảnh vui tươi hoan lạc, mọi cảnh khổ đau bệnh tật đều được dẹp bỏ.
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đức Chính 19
Đến năm 18 tuổi, Thái Tử thành hôn với cô em họ là Yasudhara (Da-du-đa-la 耶輸多羅). Các bức chạm dưới đây mô tả cảnh đám cưới.
Tác phẩm này mô tả cảnh đón dâu, Thái Tử đi đầu có lính hầu che lọng. Phía sau là con voi có gắn kiệu trên lưng chưa có người ngồi thể hiện là “kiệu hoa” đi rước Da-duđa-la.
Còn tiếp
Phiên bản này kính dâng lên cúng dường chư Phật – Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật