Luis S. R.Vas
KHÁM PHÁ SỨC MẠNH NỘI TÂM CỦA MÌNH DISCOVER THE POWER OF YOUR INNER SELF
NHỮNG PHƯƠNG CÁCH HIỆU QUẢ ĐỂ GIA TĂNG SỨC KHỎE, HẠNH PHÚC, VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH TINH THẦN
Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS Chuyển ngữ 2012
NỘI DUNG
Lời giới thiệu 1. Tự-Hướng dẫn Thành công a. Phân tích Giải quyết b. Liệu pháp Nhận thức c. Liệu pháp Cảm xúc Lý trí d. Liệu pháp Cấu trúc e. Ý định Nghịch lý f. Đạt được Sức mạnh thông qua NLP g. Đối thoại với Bộ não 2. Khả năng Thôi miên của Bạn: Yếu tố Chữa lành và Hoàn tất 3. Cất Gánh nặng cho Tâm trí Bạn 4. Tinh thần Làm chủ từ Phương Đông và Phương Tây - Suy niệm về Nhịp đập Trái tim của Giáo phái Sufi - Yoga Thích ngh - Suy niệm Kitô giáo
- Suy niệm Thiền - Suy niệm Vipassana - Lời Cầu nguyện Tập trung. - Đường lối của Chúa Thánh Thần.
5. Thành công có Dự tính Trước. 6. Phương pháp Thiền đối với việc Học hỏi. 7. Biến Căng thẳng thành Năng lực. 8. Một Chiến lược đối với Cuộc sống. 9. Chữa lành Toàn diện. 10. Luồng Tư tưởng: Nơi Kết hợp Hạnh phúc và Tính Sáng tạo.
Lời Giới Thiệu Con người hiện đại sống trong một trạng thái thường xuyên lo lắng. Những cuộc chiến tranh, nổi loạn, thiên tai vẫn đe dọa cuộc sống và tài sản của họ. Sức ép công việc càng tạo ra những đòi hỏi thái quá đối với sức chịu đựng, sự uyển chuyển, tính sáng tạo, khả năng thích nghi và thần kinh con người. Tình trạng lạm phát và những trách nhiệm gia đình buộc họ phải nhắm đến những thành tích và thu nhập càng ngày càng lớn hơn. Hậu quả thường là nỗi thất vọng, rối loạn cảm xúc, bệnh tật, suy nhược thần kinh. Suốt hơn mấy thập niên qua, các nhà tâm lý thuộc các tôn giáo khác nhau vẫn triển khai các phương pháp để giúp con người đương đầu với những căng thẳng trong cuộc sống, và duy trì sự lành mạnh. Carl Rogers phổ biến liệu pháp tập trung vào bệnh nhân, Fritz Perls phát minh liệu pháp Cấu trúc, Eric Berne khởi xướng cách Phân tích Giải quyết, Aaron Beck triển khai liệu pháp Nhận thức, Albert Ellis đề xuất liệu pháp Cảm xúc Lý trí ... Hình như so với những người khác, mỗi nhà tâm lý đều phù hợp hơn đối với một trạng thái cảm xúc đặc trưng, tính khí, trình độ giáo dục và điều kiện văn hóa. Nhưng dường như tất cả các nhà tâm lý đều làm việc tốt đẹp và nhanh chóng, khi điều trị chứng loạn thần kinh chức năng, hơn là khi phân tích tâm lý chính thống, vốn đã biến thành một bộ phận cực kỳ kéo dài và tốn kém. Hiện nay, các liệu pháp chiết trung (eclectic) có khuynh hướng sử dụng từng phương pháp của liệu pháp, tùy theo khả năng phù hợp của nó đối với một tình huống đặc trưng. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, sau khi học hỏi về phương pháp luận, hầu hết các phương pháp này
đều có thể được chính bệnh nhân sử dụng để tự-điều trị, mà không có sự giám sát và không nguy hiểm cho bản thân họ. Ngành kinh doanh và công nghệ hiện đại dự định gia tăng sản lượng, đổi mới, thúc đẩy thành tích và thỏa mãn công việc, trong số các nhân viên của họ được tài trợ để nghiên cứu thành tựu đối với những mục tiêu này. Hiện nay, có vài nhà kinh doanh lớn hoặc trung bình, mà không có một Ủy ban Nguồn Nhân lực phổ biến về cách đào tạo, được trù tính để gia tăng thành tích và hạnh phúc nơi các nhân viên của họ. Các trụ sở giáo dục cũng đang tài trợ việc nghiên cứu các phương pháp học hỏi đạt hiệu quả, để làm cho quá trình giáo dục phong phú hơn và thú vị hơn so với hiện nay. Đồng thời, nhờ việc tái khám phá những truyền thống tôn giáo Phương Đông, tâm lý học đã khám phá được những biên giới mới trong tiềm năng của tâm trí con người, để kiểm soát cơ thể và giải thoát tâm trí khỏi những bệnh tật thể lý, cũng như để kiểm soát hệ thống thần kinh tự động, vốn chi phối hoạt động không cố ý của cơ thể. Trong số các phương pháp này, nhiều phương pháp vẫn nằm rải rắc trong các bản nghiên cứu và nhật báo về kỹ thuật. Lần đầu tiên, chúng tôi đưa chúng lại với nhau ở đây. Mỗi phương pháp đều được giới thiệu bằng một nghiên cứu dựa trên đối tượng và hoàn cảnh cụ thể mà trong đó, nó đã được sử dụng thành công. Các trường hợp đều rút ra từ các bài trình bày trong các cuộc hội nghị và chương trình mà trong đó các tác giả đã tham gia. Tuy nhiên, tên và các trường hợp khác đều được hư cấu vì lý do để giữ bí mật. Các độc giả nào quyết định thử nghiệm các phương pháp này đều
được hoan nghênh khi viết thư cho tác giả về những kinh nghiệm của họ. Những lời đề nghị về lời khuyên đều sẽ chỉ được chấp nhận, nếu kèm theo một phong bì có dán tem và đề địa chỉ của người đó. Thời lượng và tình hình của từng phương pháp đều được chỉ định, nhằm tạo khả năng cho độc giả sử dụng nó trong thời gian rảnh rỗi, khi họ đang đợi một cuộc hẹn, đón xe buýt hoặc tàu lửa, đứng chờ tại sân bay hoặc đang xếp hàng. Điều này sẽ tạo khả năng cho độc giả nào thậm chí bận rộn nhất vẫn sử dụng được cuốn sách này. Tôi cũng hy vọng rằng cuốn sách này sẽ hữu ích đối với các chuyên viên tư vấn, các nhà tâm lý điều trị và chữa bệnh bằng lao động, và các nhà đào tạo trong việc quản lý nguồn nhân lực. Những gợi ý của họ về việc cải thiện bản văn hiện thời và việc bao gồm cả các phương pháp bổ sung đều được quan tâm và, nếu được sử dụng, chúng sẽ được nhìn nhận với lòng biết ơn trong các ấn bản sau này.
Luis S. R.Vas Trụ sở Tiềm năng Con người
1
Tự-Hướng dẫn thành công
Balraj đã đạt được văn bằng Thạc sĩ Tâm lý, sau đó là bằng Cử nhân Quản trị Kinh doanh, và tham gia vào Bộ phận Tiếp thị của một công ty đa-sản phẩm. Anh thành công sáng chói trong việc lên kế hoạch và thực hiện chiến lược tiếp thị của công ty, nhưng anh cũng trở nên không hòa hợp về mặt cá nhân với tất cả những người mà anh giao tiếp. Anh đàn áp các cấp dưới, xấc láo đối với cấp trên, và thậm chí còn bị chính các khách hàng của công ty thực sự căm ghét. Họ vẫn mua những sản phẩm mà công ty tiếp thị, bởi vì các món hàng và chương trình khuyến mãi mà Balraj đã nghĩ ra đều quá hấp dẫn, không thể loại bỏ vì mối thù địch cá nhân. Anh được khen ngợi khắp nơi, nhưng vẫn bị căm ghét như nhau. Cuộc sống của gia đình anh cũng không thoải mái.
Tuy nhiên, tính cách xơ mòn của Balraj đã đưa anh đến thất bại, khi trong một cuộc họp liên bộ, nơi các nhà lãnh đạo Liên hiệp cũng đều hiện diện, một trong các nhà lãnh đạo của Liên hiệp đã bực bội đối với những nhận xét không khéo léo của anh. Một cuộc khủng hoảng về các mối quan hệ lao động nảy sinh, hậu quả đe dọa gây ra một cuộc đình công. Balraj ngay lập tức bị cách chức trưởng phòng tiếp thị. Anh được tạm thời chuyển sang một bộ phận khôngcông tác, không có bổn phận cụ thể, và còn được yêu cầu tìm kiếm một công việc mới. Không có công việc nào sẵn có đối với Balraj, bởi vì tai tiếng về tính nóng nảy đã lan xa và rộng khắp trong ngành kinh doanh, hơn là năng lực tiếp thị của anh ta. Vì ít có công việc để làm, nên Balraj bắt đầu tham dự các chương trình đào tạo do Bộ phận Nguồn Nhân lực tổ chức. Anh đã tham dự một chương trình về cách Phân tích Giải quyết, một chương trình khác về Liệu pháp Cảm xúc Lý trí, và nhận thấy cả hai chương trình này đều sáng chói. Anh hiểu được thái độ của mình và phản ứng của mọi người đối với thái độ này dưới một ánh sáng mới. Khi sử dụng các nguyên tắc mà anh học hỏi ở đây, anh đã thành công khi giải quyết các vấn đề trong gia đình, và quyết định hoàn toàn thay đổi nghề nghiệp của mình. Anh còn tham dự một số khóa học về các phương pháp tư vấn, khi rời khỏi công ty, anh bắt đầu kinh doanh với tư cách là một nhà tư vấn về nhiều mục đích. Trong một thời gian ngắn, anh đã trở thành một nhà tư vấn nổi tiếng và phổ biến, kiếm được nhiều tiền hơn cả trong bộ phận tiếp thị thuộc công ty trước đây của anh.
Sau đây là một vài trong số các phương pháp mà Balraj đã học hỏi và áp dụng, để giải quyết các vấn đề giữa cá nhân với nhau, và các vấn đề nơi các thân chủ của anh. a. Phân tích Giải quyết
Mục đích:
Tự-nhận thức và những mối quan hệ tốt hơn giữa cá nhân với nhau.
Tư thế:
Không quan trọng
Thời gian:
Cùng chung với bất cứ hoạt động nào giữa cá nhân với nhau.
Lý thuyết:
Liệu pháp Phân tích Giải quyết (TA) đã được triển khai bởi nhà tâm lý Eric Berne, tác giả cuốn ‘Games People Play’ (Những Ý đồ mà Con người Xử sự) và vài cuốn sách khác. Thomas Harris, tác giả cuốn ‘I’m OK’ (Tôi Ổn) đã góp phần vào một số thuật ngữ của TA.
Liệu pháp TA cho rằng trong bất cứ hoạt động nào giữa cá nhân với nhau, như nói chuyện với vợ, chồng, cấp trên, bạn đồng nghiệp hoặc người xa lạ, chúng ta đều ở một trong ba trạng thái của tâm trí (đã được đặt tên là Trạng thái Cái Tôi trong TA). Trước hết là tâm trạng của bậc Cha mẹ, vốn nuôi dưỡng một thái độ giáo điều, đòi hỏi người khác phải tuân theo các luật lệ, và duy trì những quy ước, khi xác
định rằng họ nên cư xử chính xác như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định. Tâm trạng này diễn tả bất cứ tiêu chuẩn nào mà người ta đã được cha mẹ của mình hoặc những người có uy quyền dạy dỗ phải tuân giữ. Những từ ngữ như: “Không bao giờ”, “Luôn luôn”, “Đó là cách thức làm điều này”, “Bây giờ, con đừng cảm thấy khó chịu nữa” v.v... vẫn xảy ra, khi bậc Cha mẹ nơi bạn đang nói. Tâm trạng thứ hai, hoặc Trạng thái Cái Tôi, là tâm trạng của đứa trẻ, diễn tả tất cả những cảm xúc của con người – yêu, ghét, tức giận, phẫn nộ, tò mò, ghen tị, và cả những tâm trạng tích cực như: tò mò, hăng hái, khôi hài v.v... Khi chúng ta buông lỏng cho những cảm xúc này, thì TA nói rằng Đứa trẻ nơi chúng ta đang tương tác. Trạng thái Cái Tôi cuối cùng là tâm trạng của Người lớn, vốn là một trong cách lý luận hợp lý khách quan, trong khi xử lý đối với bất cứ tình huống hoặc vấn đề nào. Mỗi người chúng ta đều có khuynh hướng bộc lộ những Trạng thái Cái Tôi của Cha mẹ, Đứa trẻ và Người lớn một cách riêng biệt trong những hoàn cảnh khác nhau, thường là không phù hợp, đưa đến đủ mọi loại phức tạp không cần thiết. Một cấp trên có thể hành động như một bậc Cha mẹ đối với các cấp dưới, khi đòi hỏi sự vâng phục tuyệt đối trước những mệnh lệnh của họ, hơn là duy trì một mối quan hệ Người lớn cần thiết để giải quyết các vấn đề của Công ty. Các cấp dưới nào đáp lại bằng trạng thái Cái Tôi của Trẻ con đều có thể rất phù hợp với loại cấp trên như vậy. Nhưng không phải lúc nào cũng thế, bởi vì trạng thái Cái Tôi của Trẻ con cũng có thể chống đối bậc Cha mẹ, hậu quả gây ra những vụ đụng chạm và giận dỗi. Một trạng thái Cái Tôi của Người lớn không thể liên quan đến một cấp trên như
vậy, cho đến khi nó có khả năng bằng cách này hay cách khác thuyết phục cấp trên cũng thay đổi sang trạng thái Cái Tôi của Người lớn. Sau đây là một số tương tác điển hình liên quan đến bậc Cha mẹ, Người lớn và Trẻ con: A: “Bạn làm gì vào buổi tối?” (Người lớn). B.
“ Có bất cứ công việc nào là của bạn không?” (Trẻ con).
C.
“Bạn phải làm cả đống việc” (Cha mẹ).
D.
“Tôi xin lỗi” (Trẻ con). ----------------------------------
E.
“Đừng quấy rầy tôi. Tôi còn phải làm việc ít nhất 2 giờ nữa, trước khi tôi có thể thưởng thức một tách trà (Trẻ con).
F.
“Tại sao bạn không làm việc thường xuyên hơn?” (Cha mẹ). --------------------------------
G.
“Mấy giờ rồi?” (Người lớn).
H.
“Ba giờ” (Người lớn).
Trong cuộc sống, một trong ba trạng thái Cái Tôi nói chung vẫn chi phối, xác định lối sống của một người. Chẳng hạn, lối sống chiếm ưu thế hơn của Trẻ con là tán thành và phản đối chính mình, hoặc sợ hãi thế giới chung quanh. Theo thuật ngữ TA, lối sống này được diễn tả như: “Tôi không ổn, bạn ổn”. Đứa trẻ hay chống đối cũng có thể diễn tả sự phản đối thế giới cũng như bản thân: “Tôi không ổn, bạn không ổn”. Lối sống chiếm ưu thế hơn của Cha mẹ nuôi dưỡng sự tán thành chính mình và phản đối thế giới: “Tôi ổn, bạn không ổn”. Lối sống chiếm ưu thế hơn của Người lớn là tán thành lẫn nhau: “Tôi ổn, bạn ổn”. TA giúp người ta trở nên ý thức về những Trạng thái Cái Tôi trong những hoạt động tương tác khi chúng xảy ra, mang lại tầm quan trọng tương đồng cho từng Trạng thái Cái Tôi, và cho phép diễn tả một trạng thái phù hợp nhất trong những tình huống. Điều này làm cho người ta có thể hòa nhập những cảm giác, tư tưởng, và thái độ, bằng cách: (1) quan sát và cập nhật hóa Bậc Cha mẹ, (2) giải thoát Đứa trẻ khỏi thái độ “không ổn” của mình, (3) hướng dẫn Người lớn hoạt động mà không bị nhiễm trạng thái của Cha mẹ hoặc Trẻ con. Người ta cũng có thể học hỏi để nhận ra những “Ý đồ” của mình và những người khác – thuật ngữ của TA đối với những hành động thường được đảm trách một cách vô thức để được “trả tiền”, chẳng hạn như “những hành động tích cực” (diễn tả sự tán thành), hoặc ngay cả “những hành động tiêu cực”, diễn tả sự phản đối. Để minh họa, một nhân viên làm việc chăm chỉ mà vẫn bị cấp trên phớt lờ, làm mất đi những hành động tích cực, và có thể có ý đồ vắng mặt. Đây là một ý đồ mà người đó xử sự, nhằm làm cho mình
được chú ý, ngay cả nếu hậu quả là họ bị khiển trách, bởi vì họ thích một hành động tiêu cực hơn là bị phớt lờ. Hiện nay, nhiều công ty vẫn sử dụng TA trong các chương trình đào tạo của họ. Chẳng hạn, một công ty Hàng Không đã triển khai một chương trình được gọi là Phân tích Giải quyết dành cho cách Đối xử với Khách hàng (TACT), trong đó, các nhân viên bán hàng và thủ quỹ đều được dạy dỗ để nhận biết một (khách hàng) có thể đang ở trạng thái gì – và phản ứng đối với trạng thái cái tôi thực sự của chính mình. Chẳng hạn, một khách hàng la lối và đe dọa nhân viên, hoặc thọc bàn tay qua cửa sổ có thể ở trong trạng thái cái tôi của Trẻ con. Một khách hàng cư xử giống như một “bậc Cha mẹ” sẽ độc đoán và đòi hỏi, có thể để đưa ra những lời phát biểu chung chung. Trong trạng thái cái tôi của Người lớn, việc thực hiện quyết định là một phần trong bộ ba, người đó sẽ bình tĩnh và hợp lý. Người điều khiển chương trình đào tạo nói: “Chúng ta cố gắng chuyển lối cư xử sang mức độ của Người lớn, nhưng đôi khi, bạn phải đóng một vai trò khác. Nếu một khách hàng tức giận phát xuất từ trạng thái Cái Tôi của Trẻ con, thì có thể nhân viên muốn lâm vào trạng thái nặng nề của bậc Cha mẹ. Người đó có thể nói điều gì đó như: “Loại thái độ này không chấp nhận được ở đây”. Những thuật ngữ “hành động” và “vỗ về” rất quan trọng trong TACT. Một nhân viên nói: “Thông thường, tất cả những điều mà khách hàng cần là một hành động. Chỉ cần tử tế với họ, và họ sẽ trấn tĩnh lại”. Sau đây là thủ tục sẽ giúp bạn nhận ra những trạng thái cái tôi khác nhau trong hành động:
Thủ tục: Bước 1: Hãy xem xét một hành động tương tác mới đây mà bạn đã có đối với một đồng nghiệp hoặc cấp trên. Hãy cố gắng tìm hiểu xem có phải mình đã tương tác như là Trẻ con cho đến Cha mẹ, Trẻ con cho đến Người lớn, Người lớn cho đến Người lớn, hoặc Cha mẹ cho đến Trẻ con hay không. Hành động tương tác này có phù hợp không? Bạn có bất cứ ý đồ nào đối với người nói chuyện với mình, hoặc người đó đối với bạn không? Phải chăng một trong hai người đang mong đợi những hành động từ người kia? v.v... Bước 2: Bạn đã lên kế hoạch cho những hành động tương tác nào trong ngày? Hãy chọn một hành động, và lên kế hoạch để phân tích nó dựa trên cơ sở TA, đối với những Trạng thái Cái Tôi phù hợp hoặc không phù hợp ở cả hai phía, khi nó xảy ra. Bước 3: Hãy cố gắng nhờ vợ/ chồng, hoặc một người bạn phân tích Trạng thái Cái Tôi của bạn, khi cả hai người đang tương tác với nhau. Hãy đọc và thảo luận những cuốn sách về TA, như “Tôi ổn, Bạn ổn”, và cố gắng áp dụng những thấu hiểu về chúng vào cuộc sống của bạn. Để theo dõi nguồn gốc những cảm giác không vui của bạn, như tức giận, lo lắng, hồi hộp, và chấn chỉnh chúng, Amy B Barris và Tiến sĩ Thomas Harris đã phát minh và
trình bày một phương pháp hữu ích khác trong cuốn Staying OK (Nói Đồng ý). Theo dõi: Mục đích: Để xử lý những cảm giác không phù hợp và phản tác dụng. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Không giới hạn, nhưng có thể phân chia thành những khoảng thời gian 10 phút.
Thủ tục: Bước 1: Hãy thừa nhận cảm giác đối với bản thân. Đôi khi, bạn không công nhận rằng mình tức giận, ngay cả khi những người khác vạch ra cho bạn rằng bạn tức giận! Sự thừa nhận những cảm giác của mình chính là bước đầu tiên để xử lý chúng. Bước 2: Hãy thừa nhận rằng chính Đứa trẻ trong bạn đang trải nghiệm những cảm giác tiêu cực, vốn là một hình thức của sự tổn thương về mặt cảm xúc.
Bước 3: Từ hoặc cụm từ nào tóm tắt tốt nhất cảm giác đó? Phải chăng đó là: “ngu xuẩn”, “Bạn sẽ không bao giờ đạt tới bất cứ điều gì”, “thất bại”, “không phù hợp với bất cứ điều gì”, “thật là trơ tráo”...? Có thể đôi khi trong quá khứ, bạn đã từng bị tố cáo bằng những lời này, và cảm giác càng củng cố lời tố cáo. Bước 4: Sự kiện gì mới đây đã gây ra cảm giác này? Phải chăng lời chế nhạo của vợ/ chồng bạn? Thất bại trong việc thực hiện điều gì đó? Một sai lầm tồi tệ? Người khác nào đó đã đạt được điều mà bạn mong muốn? Bước 5: Trong trường hợp này, con người Cha mẹ nơi bạn đang nói gì với Đứa trẻ nơi bạn, và Đứa trẻ phản ứng như thế nào? Bạn có thể hình dung được sự trao đổi không? Hãy thử hình dung điều này trong vòng vài phút. Qua việc thực hành, bạn sẽ có khả năng làm điều đó một cách gần như ngay lập tức. Hãy cố gắng hình dung rằng Cha mẹ và Đứa trẻ là hai người khác, không phải là bạn. Sự xa cách với các nhân vật chính sẽ giúp bạn dễ dàng hơn trong việc tái tạo cuộc đối thoại.
Bước 6: Bây giờ, bạn có thể làm gì một cách khác biệt? Bạn đã để cho Người lớn nơi bạn quan sát tình hình. Hãy nghĩ đến một số giải pháp của Người lớn đối với vấn đề: Làm sáng tỏ một điểm cùng với người đã gây ra vấn đề này, để phát hiện xem người đó có ý muốn nói điều mà bạn hiểu không; nếu chính hành động của bạn gây ra vấn đề, thì hãy đặt người nào đó vào vị trí của mình. Bạn có phê phán người đó một cách khắc nghiệt, giống như bạn phê phán đang bản thân không? Bước 7: Lần tới, phải chăng bạn sẽ phản ứng một cách khác biệt? Chắc hẳn bây giờ bạn đã quyết định rằng mình sẽ phản ứng như vậy. Hãy cam đoan rằng sẽ không phải là Đứa trẻ đang phản ứng lại một cách không phù hợp, với những cảm giác có hại hơn. Thay vào đó, bạn có thể làm cho Người lớn nơi bạn phản ứng không? Như thế nào? Qua phương pháp này, bạn sẽ đạt được sự thấu hiểu hơn đối với những cảm giác của mình, và có một cách xử lý để kiểm soát chúng.
Kịch bản Một khái niệm quan trọng trong TA là Kịch bản. Eric Berne đã nói: “Kịch bản là một kế hoạch cuộc đời, dựa trên quyết định được thực hiện trong thời thơ ấu, do cha mẹ củng cố, các sự kiện theo sau biện minh, và lên tới tột đỉnh trong một khả năng chọn lựa”. Chẳng hạn, cha mẹ có thể nói với con họ: “Mày sẽ không bao giờ đạt tới bất cứ điều gì trong cuộc đời”. Khi tin tưởng vào sự khôn ngoan hiểu biết tất cả mọi sự của cha mẹ nó, đứa con sẽ tiếp thu dự báo này, hạ thấp tầm nhìn, từ bỏ những hoài bão của mình, và kết thúc bằng sự thất bại. Bất cứ khi nào các bạn bè hoặc những người hảo tâm khích lệ đứa con cố gắng hơn và đạt được một mục tiêu quan trọng, thì lời dự báo của cha mẹ lại diễn ra giống như một cuộn băng trong tâm trí nó, và khiến nó bỏ cuộc ngay cả trước khi cố gắng. Tuy nhiên, đây không phải là một sự kiện phổ biến. Đứa con khác có thể phản ứng một cách khác hẳn so với dự báo của cha mẹ nó. Dự báo có thể khiến đứa con tức giận, động viên nó bằng mọi giá chứng tỏ rằng cha mẹ nó sai lầm trong lãnh vực mà họ phán đoán là quan trọng. Chẳng hạn, nếu cha mẹ là luật sư, thì cuối cùng đứa con có thể trở thành một thẩm phán, chỉ để chọc tức ông bố, mặc dù đứa con không hề có sở thích đặc biệt đối với ngành luật, và thích trở thành một nhà khoa học hoặc giáo viên hơn. Trong cả hai trường hợp được mô tả trên đây, phản ứng của đứa con đều không phù hợp. Đứa con nên có khả năng tự quyết định điều gì phù hợp nhất với mình, và đi theo
vận mệnh của mình, không bị đè nặng bởi những ý thích chợt nảy sinh của cha mẹ. Liệu pháp Phân tích Giải quyết mô tả nhiều kịch bản đa dạng, nhưng đại khái, chúng có thể được phân chia thành ba loại: kịch bản của người chiến thắng, kịch bản của người thua cuộc, và kịch bản của người không-chiến thắng. Theo Berne, những người chiến thắng hiểu biết mình muốn gì, đi theo và đạt được điều đó. Những người thua cuộc có thể đi theo điều họ mong muốn, nhưng bằng cách này hay cách khác, họ lại thất bại trong việc đạt được điều đó. Những người không-chiến thắng ổn định với một kịch bản tầm thường. Họ không chiến thắng cũng không thua cuộc. Trong việc đạt được sự tự do từ một kịch bản không phù hợp, bước đầu tiên là ý thức rằng mình đang đi theo một kịch bản như vậy, rồi sau đó, thực hiện một nỗ lực có ý thức để khắc phục điều đó, với sự giúp đỡ của các bạn bè và cố vấn nào có đủ tư cách nhận biết những khả năng và tính khí của bạn. Bởi vì các kịch bản đều do Cha mẹ kiểm soát, nên để tự giải thoát khỏi họ, người ta phải thoát khỏi quyền kiểm soát của Cha mẹ, và buông lỏng đối với (Trạng thái cái Tôi của) cả Đứa trẻ lẫn Người lớn. Sau đây là phương pháp:
Thoát khỏi các Kịch bản
Mục đích: Để giải thoát mình khỏi sự chi phối bởi quyền lực từ thời thơ ấu. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Không giới hạn, nhưng có thể phân chia thành những khoảng thời gian 10 phút.
Thủ tục: Bước 1: Khi không còn bị quấy rầy, bạn hãy tự hỏi mình mong muốn điều gì từ cuộc sống, lớn và nhỏ, nếu tiền bạc, sức khỏe v.v... không bị hạn chế. Hãy làm một bản danh sách dài tùy thích: Một thanh sôcola? Một kỳ nghỉ bên ngoài thị trấn? Một căn nhà mới lớn hơn? Một chiếc xe thể thao? Thể lực tốt hơn? Công việc riêng? Để trở thành nhà độc tài thế giới? Cả một đoàn người phục vụ? Một chiếc du thuyền? Một chiếc vòng cổ kim cương? Mỗi ngày ba chiếc sà-ri (áo của phụ nữ Ấn Độ)? 10 triệu đồng rupi? Sở hữu một căn biệt thự ở Thụy Sĩ? Sở hữu một hậu cung bao gồm các phụ nữ trên toàn thế giới? Thực hiện một chuyến đi vòng quanh thế giới? Phát minh một hình thức năng lực tự do ?... Hãy dành nhiều ngày theo ý muốn của bạn, để làm một bản danh sách bao quát. Hãy để cho trí tưởng tượng của
bạn bay bổng. Yêu cầu duy nhất là các điều khoản đều tự nhiên và cụ thể. Hãy cam đoan như vậy. Nếu bạn cảm thấy hứng thú về việc này, thì bạn có thể đoan chắc rằng đó là trạng thái của Trẻ con. Nếu bạn cảm thấy đó là một công việc bổn phận, thì đó là trạng thái của bậc Cha mẹ – hãy phớt lờ nó đi. Bước 2: Hãy để cho Người lớn nơi bạn phê phán những hậu quả và tính thực tế của những điều khoản trong bản danh sách của bạn. Một thanh sôcola có thể không đáng mong ước nếu bạn bị thừa cân. Hãy đánh giá những khó khăn trong việc đạt được từng điều khoản dựa trên bậc thang 10 điểm, từ điều khoản dễ dàng nhất đến khó khăn nhất – sau khi gạch bỏ điều khoản nào không đáng mong ước. Bước 3: Khi khởi sự bằng điều khoản dễ đạt được nhất, bạn hãy bắt đầu hoàn thành từng điều khoản một, theo thứ tự ưa thích nhất của mình. Hãy phân chia những điều khoản khó khăn nhất thành các bước, để hoàn tất mỗi điều khoản một lúc, trong một khung thời gian cụ thể. Mỗi bước không nên quá khó hoàn tất, sao cho có thể duy trì sự hứng thú của bạn đối với điều khoản này. Hãy mơ tưởng đến việc đạt được những mong muốn của mình, và quan sát xem bạn cảm thấy thế nào. Hãy tự thưởng công cho mình bằng cách nào đó, sau mỗi bước thành công.
Bước 4: Hãy cố gắng khám phá những người nổi tiếng đã đạt được những điều mà bạn muốn đạt được. Hãy đọc về cách họ làm thế nào để hoàn tất chúng, những khó khăn mà họ đã khắc phục. Điều này sẽ khích lệ bạn khắc phục những khó khăn có thể so sánh được. Bước 5: Khi những thành tích của bạn phát triển, hãy nhớ lại những thành tích này bất cứ khi nào bạn có nhiều điều khó hoàn tất hơn. Hãy sử dụng bất cứ phương pháp nào khác trong cuốn sách này, mà bạn cảm thấy là sẽ giúp đỡ mình. Dần dần, bạn sẽ từ bỏ được trạng thái của bậc Cha mẹ và kịch bản về lối sống mà trạng thái này đã viết ra cho bạn. Và bạn sẽ phát triển một trạng thái mới của bậc Cha mẹ, phát xuất từ kinh nghiệm trưởng thành của bạn về những điều đúng đắn và sai trái.
b. Liệu pháp Nhận thức Ramesh là viên chức quản trị trong một hội phát triển nhà ở. Sau khi phục hồi từ một thời kỳ đau yếu ngắn khiến anh phải nhập viện, anh đã triển khai việc cưỡng bách mình phải rửa tay cứ sau mỗi 10 phút hoặc đại khái như vậy. Mỗi lần, anh đều bồn chồn một lúc, và không tập trung chú ý được, cho đến khi anh đi tới bồn và rửa tay. Bởi vì anh sống tại Mumbai, và phải đi làm bằng tàu lửa, cách nhà hơn một giờ, nên anh vẫn phải tạm thời ngắt quãng cuộc hành trình của mình mấy lần, đi xuống các trạm trên đường để rửa tay. Thậm chí anh còn phải thức dậy nhiều lần giữa đêm để nhượng bộ sự bắt buộc này của mình. Khi không thể rửa tay được, thì vẫn đưa đến hậu quả là nỗi lo lắng trầm trọng. Cuối cùng, khi anh không còn có thể tiếp tục thói quen rửa tay của mình được nữa, thì anh đã đến một nhà tâm lý điều trị được đào tạo về liệu pháp nhận thức. Nhà tâm lý phát hiện rằng nỗi sợ hãi đối với vi khuẩn đã đưa Ramesh thường xuyên đến với bồn rửa tay. Việc thẩm vấn thêm còn bộc lộ rằng bất cứ khi nào Ramesh nghĩ đến những con vi trùng, thì anh đều tưởng tượng là mình đang nằm hấp hối trên giường vì bị chứng bệnh nhiễm trùng nào đó. Trong câu chuyện của họ, nhà tâm lý tình cờ đưa cho Ramesh một bức tượng nhỏ từ trên bàn của ông, mà Ramesh coi như một vị thần. Sau khi quan sát bức tượng, Ramesh tự bào chữa và đi tới bồn rửa tay, nhưng nhà tâm lý đã khóa cửa phòng. Do bị mắc kẹt, nên Ramesh bắt đầu thở nặng nề, nhịp tim đập nhanh, và đỏ mặt lên. Anh bắt đầu bị ho, và cảm thấy rất yếu. Nhà tâm lý đã vạch ra cho Ramesh rằng ngay cả nếu anh bị nhiễm trùng, thì tình trạng nhiễm trùng vẫn sẽ không
bộc lộ quá sớm đến thế. “Tôi bắt buộc anh ta phải tạm ngưng hình ảnh trong tâm trí mình, và thường xuyên đánh giá tình hình. Tôi nói với anh ta rằng tôi đã từng sờ vào bức tượng hàng tá lần rồi, chỉ cho tất cả các bệnh nhân của tôi, và từ khi tôi nhận được bức tượng này cách đây 7 năm, cả tôi lẫn các bệnh nhân của tôi, không một ai bị nhiễm trùng cả. Bí quyết nằm trong việc khám phá những tư tưởng tự động và những hình ảnh đều liên kết với sự cưỡng bách của anh ta. Phần còn lại thật dễ dàng. Ramesh đã học hỏi để hướng tâm trí khỏi hình ảnh gây sợ hãi mà anh vẫn biết là vô lý, và đã mất đi nỗi sợ hãi của mình”. Việc nắm bắt được những tư tưởng tự động hoặc tầm nhìn của bạn ngay trước khi nỗi lo lắng tấn công, rồi sau đó, thử thách tính hợp lý của tư tưởng đó, thông qua bất cứ phương tiện nào sẵn có, thì cuối cùng sẽ loại bỏ được nỗi lo lắng. Cũng có thể áp dụng phương pháp này để giải quyết những xung đột giữa cá nhân với nhau như sau: Nắm bắt được những Tư tưởng Tự động của Bạn
Mục đích: Cải thiện những Mối Quan hệ Liên Bản vị và Kiểm soát Cảm xúc. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Không giới hạn, nhưng có thể phân chia thành những khoảng thời gian 10 phút.
Thủ tục: Bài tập này dựa trên liệu pháp nhận thức, đề xuất rằng các vấn đề liên bản vị giữa chồng và vợ, cấp trên và cấp dưới, các đồng nghiệp và những người khác, đều diễn ra như là hậu quả của cách giải thích sai về những động cơ, tư tưởng và cảm giác của người khác. Tiến sĩ Aaron Beck đề xuất một thủ tục sáu bước, để cải thiện những mối quan hệ liên bản vị của bạn. Bước 1: Học hỏi cách nắm bắt những tư tưởng tự động của bạn Khi thái độ của người nào đó gây tức giận cho bạn, thì bạn hãy cố gắng khám phá xem mình giải thích thái độ đó như thế nào, tới chừng mức mà nó liên quan đến bạn, nghĩa là, những tư tưởng nào tự động xảy ra với bạn, khi thái độ đó gây ra sự phẫn nộ nơi bạn. Có thể những tư tưởng tự động này : “Anh ta/ cô ta không quan tâm đến tôi”, “Anh ta/ cô ta muốn lợi dụng tôi”, “Anh ta/ cô ta bỏ ra ngoài để làm bẽ mặt tôi” thường không được biện minh. Chúng xuất hiện từ cách giải thích sai về những vẻ mặt, giọng nói, cử chỉ vẫn được bạn và người khác sử dụng với những mục đích khác nhau. Hãy tự hỏi: Chứng cứ gì ủng hộ cách giải thích của tôi, và chứng cứ gì chống lại nó? Hãy cố gắng không thiên vị, như thể cuộc tranh cãi xảy ra giữa người khác và người khác nào đó, và bạn là trọng tài.
Bước 2: Thực hành việc nắm bắt những tư tưởng tự động của bạn Bất cứ khi nào bạn trải nghiệm một cảm xúc – bực tức, vui mừng, buồn phiền, oán giận – thì bạn hãy cố gắng xác định tư tưởng tự động đi kèm theo cảm xúc này. Tiến sĩ Beck nói: “Chính việc học hỏi để hiểu được những tư tưởng lướt qua tâm trí bạn mang lại cho bạn sức mạnh vượt trên những cảm xúc mà chúng tiến triển”. Bước 3: Hướng sang một phản ứng hợp lý Hãy xem xét điều gì có thể là nguyên nhân đối với thái độ của người khác, từ quan điểm của chính người đó. Bước 4: Kiểm tra tính chính xác nơi những tư tưởng tự động của bạn Hãy hỏi người khác, mà không đưa ra những lời tố cáo, xem những tư tưởng tự động của bạn có bộc lộ sự thật về những ý định hoặc cảm giác của người đó, khi nhấn mạnh vào thái độ của họ. Phản ứng của người đó có thể khai sáng. Bước 5: Thay đổi những Nhận thức của Bạn Nét tính cách của con người có thể được nhìn một cách tích cực hoặc tiêu cực. Bạn có thể coi một người “tự tin” đối với người khác như là “quá áp bức và huyênh hoang”, người khác là “lạnh nhạt” hoặc “vô trách nhiệm”, người khác là “vội vã” hoặc “nóng nảy” v.v... Sự thay đổi về những nhận thức của bạn có thể cải thiện các mối quan hệ.
Bước 6: Các mối quan hệ hệ tại ở việc đáp ứng những nhu cầu Hãy cố gắng ghi nhớ rằng mối quan hệ tốt đẹp hệ tại ở việc cùng nhau đáp ứng những nhu cầu. Để cải thiện mối quan hệ của bạn, hãy thử khám phá xem những nhu cầu của người khác là gì, và bạn có đang đáp ứng chúng hay không. Đôi khi, chỉ lúc người ta làm cho người khác cảm thấy thoải mái về bản thân họ, thì mới củng cố được mối quan hệ. c. Liệu pháp Cảm xúc Lý trí (RET) Phân tích DIBS trong RET
Mục đích:
Kiểm soát cảm xúc.
Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian:
10 phút.
Thủ tục: Liệu pháp Cảm xúc Lý trí (RET) Liệu pháp (RET) dựa trên lý thuyết rằng những cảm xúc không phù hợp như: tức giận, lo lắng, buồn phiền đều không phải do bất cứ sự kiện nào gây ra, nhưng do quá trình suy nghĩ không phù hợp, dựa trên một hệ thống niềm tin phi lý.
Sự kiện mà chúng ta thường tin là gây ra tình trạng tức giận, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, được đặt tên là “Sự kiện Hoạt hóa” hoặc “A”. Theo sau “A” là một niềm tin phi lý “iB”, đáp lại, nó đưa đến một hậu quả không phù hợp về mặt cảm xúc hoặc thái độ “iC” – ABC của RET. Phương cách điều trị đối với những rắc rối về cảm xúc của chúng ta bao gồm việc theo dõi Sự kiện Hoạt hóa (A), nhận ra Niềm tin phi lý (iB), thay thế vào đó bằng một Niềm tin Hợp lý (rB), sao cho theo sau là một kết quả phù hợp về mặt cảm xúc hoặc thái độ (aC). Sự đa dạng về lý trí không dễ dàng thay thế được các niềm tin phi lý. Chúng phải được Khám phá, Phân biệt và Tranh luận (D), cho đến khi đưa đến kết quả là tác động cảm xúc (E) phù hợp. Chuỗi ABCDE này được biết đến như là DIBS – Tranh luận (D) về Hệ thống (S) Niềm tin (B) Phi lý (I). Thủ tục DIBS như sau: Chẳng hạn, khi bạn trải nghiệm cơn tức giận, thì bạn hãy nhận ra sự kiện hoạt hóa A, điều này thường dễ dàng, rồi sau đó, bạn hãy cố gắng khám phá: 1. Niềm tin nào liên quan đến sự kiện này đã gây ra cơn tức giận của bạn. Ít nhất thì sự kiện làm nổ ra cơn tức giận này có thể là một lời lăng mạ vô cớ. Cơn tức giận của bạn dựa trên niềm tin rằng “anh ta không nên cư xử theo cách thức bất công như vậy đối với tôi”. 2. Bạn có thể biện minh cho niềm tin này dựa trên lý trí không? Có lẽ anh ta có một quan điểm khác về tình huống, mà có thể bạn không chấp nhận được. Ngoài ra, không hề có quy luật nào nói rằng anh ta không
nên hành động một cách bất công đối với bạn, mặc dù có thể bạn rất không ưa điều đó. Với niềm tin rằng anh ta không nên cư xử theo cách thức như vậy đối với bạn, thì bạn đang thực sự đòi hỏi anh ta cư xử theo cách thức mà bạn muốn. 3. Liệu có hợp lý không, khi bạn mong đợi một cá nhân tự do phải luôn luôn hành động theo những đòi hỏi của bạn? 4. Có phải bạn không thể nghĩ đến những điều tồi tệ nào khác hơn là lời lăng mạ bạn, mà anh ta có thể cư xử đối với bạn? Cách phân tích DIBS này sẽ tạo khả năng cho bạn thành công trong việc tranh luận về niềm tin phi lý của mình, và thay thế cơn tức giận chỉ bằng nỗi ngán ngẩm (hậu quả phù hợp). Phương pháp tương tự có thể xử lý được nỗi lo lắng, nỗi buồn phiền, thất vọng, tự-thán, vỡ mộng. Sau đây là một bản danh sách những niềm tin phi lý phổ biến nhất, và những cách giải thích hợp lý tương ứng về chúng, mà Tiến sĩ Albert Ellis đã biên soạn:
Phi lý
Hợp lý
1. Tôi tuyệt đối cần được mọi người yêu thương hoặc tán thành về mọi việc tôi làm.
1. Người ta không tuyệt đối cần được đón nhận tình yêu thương hoặc sự tán thành từ tất cả những người có ý nghĩa. Người ta có thể tập trung vào việc yêu thương, hơn là được yêu thương.
2. Một số hành động là sai trái và xấu xa, và nên trừng phạt nặng nề đối với kẻ nào thực hiện những hành động này.
2. Không phải lúc nào cũng cần đổ lỗi hoặc trừng phạt những người hành động sai trái, nhưng chỉ nên coi như họ dại dột hoặc rối loạn cảm xúc mà thôi.
3. Thật là khủng khiếp, kinh hoàng và tai họa, khi các sự việc lại không xảy ra theo cách thức mà tôi muốn chúng xảy ra!
3. Mọi sự không nhất thiết xảy ra theo cách thức người ta mong muốn chúng xảy ra, và đối với tất cả những điều người ta hiểu biết, thì những cách thức này có thể tốt hơn những cách thức mà bản thân họ mong ước.
4. Hầu hết nỗi bất hạnh của con người đều gây ra từ
4. Tất cả mọi sự bất hạnh của con người đều gây ra hoặc kéo dài, do quan
bên ngoài, và bị thúc ép do những người và sự kiện bên ngoài.
điểm mà qua đó người ta chấp nhận các sự kiện, hơn là do chính bản thân các sự kiện.
5. Nếu điều gì đó nguy hiểm hoặc có thể nguy hiểm hoặc đáng sợ, thì người ta nên thực sự lo lắng về nó.
5. Nếu điều gì đó nguy hiểm, thì người ta nên đương đầu với nó, và cố gắng làm cho nó trở nên không nguy hiểm, chứ không biến nó thành một tai họa.
6. Khi người ta tránh đương đầu với những khó khăn của cuộc đời và những trách nhiệm của mình thì dễ dàng hơn.
6. Phương cách duy nhất để giải quyết các vấn đề khó khăn là thẳng thắn đương đầu với chúng.
7. Người ta cần tin tưởng vào điều gì đó mạnh mẽ hơn hoặc lớn lao hơn bản thân mình.
7. Thật tốt hơn nhiều khi đứng trên đôi chân của mình, và đạt được niềm tin nơi bản thân và những khả năng của mình, để chịu đựng những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
8. Người ta nên triệt để thành thạo, đầy đủ, thông minh và đạt được tất cả mọi khía cạnh có thể có của cuộc đời.
8. Người ta nên chấp nhận rằng bản thân mình bất toàn, với những giới hạn nói chung của con người, và những khả
năng có thể sai lầm cụ thể. 9. Bởi vì điều gì đó đã từng ảnh hưởng đến cuộc sống của một người, nên điều đó sẽ dứt khoát ảnh hưởng đến cuộc đời người đó.
9. Người ta nên học hỏi từ kinh nghiệm trong quá khứ, nhưng không nên gắn bó một cách thái quá vào chúng, hoặc bị chúng gây thành kiến.
10. Những điều người khác làm đều mang tính cách quan trọng sống còn đối với sự tồn tại của chúng ta, và chúng ta nên hết sức nỗ lực để thay đổi chúng theo chiều hướng mà chúng ta thích chúng thay đổi.
10. Những khiếm khuyết hoặc yếu đuối của người khác đều phần lớn là các vấn đề của họ, và việc gây sức ép để họ thay đổi không chắc giúp họ thay đổi.
11. Có thể đạt được hạnh phúc của con người bằng sự trì trệ và không hoạt động.
11. Con người thường hạnh phúc nhất, khi họ tích cực và cực kỳ say mê thực hiện những hoạt động theo đuổi bên ngoài bản thân họ.
12. Người ta thực sự không kiểm soát được những cảm xúc của mình, và người ta không thể chịu đựng khi cảm thấy những sự việc nào đó.
12. Người ta có quyền kiểm soát rất lớn trên những cảm xúc của mình, nếu họ chọn tiếp tục học hỏi những cách bày tỏ mới mẻ, đúng đắn, như
những cách thức được đưa ra trên đây.
d. Liệu pháp Cấu trúc Radha là một nữ sinh 15 tuổi đang học năm cuối ở trường. Cô bé đã từng là một học sinh giỏi, nhưng hiện nay, những điểm số của cô bắt đầu giảm xuống, và cô không còn khả năng học nữa. Cô bé nói với nhà tư vấn trong trường rằng mẹ cô chính là nguyên nhân. Cô coi như bà quá khắt khe, bất công đối với mình, và trừng phạt cô vì những lý do nhỏ nhặt nhất. Cả cô bé này lẫn bà mẹ đều buộc phải trải qua Liệu pháp Cấu trúc một cách riêng biệt để giải quyết các vấn đề của họ. Liệu pháp Cấu trúc cố gắng đưa đối tượng đến việc: 1. Sống trong hiện tại, không mơ tưởng đến quá khứ hoặc tương lai, hoặc về những người vắng mặt và những điều mà bạn không có. 2. Ngừng tưởng tượng và suy nghĩ quá nhiều, thay vào đó, hãy trải nghiệm thực tế thông qua các giác quan của mình. 3. Diễn tả những cảm giác của mình, thay vì phê phán và vận động những người khác làm điều mà bạn muốn họ làm.
4. Học hỏi để trải nghiệm những cảm giác không thú vị một cách thản nhiên, cũng như những cảm giác thú vị. 5. Xác định tư cách đạo đức của bạn trong việc nhận trách nhiệm đối với tất cả mọi hành động, cảm giác và tư tưởng của mình – đừng đổ lỗi cho người khác. 6. Hãy chấp nhận con người của mình như nó là, chứ không phải như bạn nghĩ hoặc những người khác mong muốn cho bạn như vậy. Sau đây là một số phương pháp sẽ giúp bạn thực hiện được toàn bộ điều này:
Nhận thức Mục đích: Để học hỏi sống trong hiện tại. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Mỗi lần 10 phút. Thủ tục: 1. Phát biểu với chính mình những câu bắt đầu bằng “Tôi ý thức rằng...”: “Tôi ý thức rằng mình đang ngồi”, “Tôi ý thức rằng mình đang suy nghĩ”, “Tôi ý thức được độ cứng của cái ghế”, “Tôi ý thức được những màu sắc trong phòng”, “Tôi ý thức được tiếng
ồn bên ngoài” v.v... Hãy thường xuyên làm điều này mỗi lần trong vòng 10 phút theo khả năng của bạn. 2. Hãy nghĩ đến một nơi nào mà bạn cảm thấy đặc biệt thoải mái. Hãy thử trải nghiệm tất cả mọi chi tiết – màu sắc, âm thanh, mùi vị, tư tưởng, cảm giác liên quan đến nơi đó. Hãy thử hình dung mình như là một trong những màu sắc, một trong những mùi vị, một trong những cảm giác – mỗi lần một thứ, mỗi thứ trong vòng vài phút. Hãy so sánh kinh nghiệm của bạn với những màu sắc, mùi vị, đối tượng khác v.v... Bài tập này sẽ mang lại sự kích thích cho trí tưởng tượng của bạn, và tạo khả năng cho bạn giải quyết các vấn đề của mình một cách sáng tạo hơn. 3. Từ nơi đặc biệt của bạn, hãy trở lại với nơi mà bạn đang thực sự có mặt, và trở nên ý thức về những thứ chung quanh bạn một cách càng sống động càng tốt. Sau đó, hãy trở lại với nơi đặc biệt của bạn. Hãy dành một khoảng thời gian ở đó và trở lại. Bạn có cảm thấy khó khăn trong việc đi tới đi lui không? Những cảm giác ở mỗi nơi là gì? Bạn thà ở đâu thì hơn – trong tưởng tượng hoặc trong thực tế? Bài tập này sẽ giúp bạn chấp nhận thực tế một cách toàn tâm toàn ý hơn. 4. Hãy đặt hai cái ghế dựa trong một căn phòng, nơi bạn có thể tự nhốt mình trong đó. Hãy ngồi trên một cái ghế dựa, và hình dung rằng cha mẹ, các đồng nghiệp hoặc cấp trên của mình đang ngồi trên cái ghế kia. Hãy bắt đầu đối thoại với họ, trong khi đương đầu với các vấn đề mà bạn đang có đối với họ. Khi bạn đã có tiếng nói của mình, hãy ngồi trên cái ghế kia, và
chấp nhận quan điểm của người khác, và trả lời đối với những nhận xét của mình. Hãy tiếp tục câu chuyện trong vòng vài phút, và nhận xét xem mình có thể học hỏi được điều gì đó về những cảm giác của mình đối với người khác hay không. Phương pháp này sẽ giúp bạn quan hệ tốt hơn.
e. Ý định Nghịch lý
Mục đích:
Để phản đối một thái độ hoặc cảm xúc không phù hợp.
Thời gian:
10 phút.
Tư thế:
Bất cứ thái độ nào phù hợp trong các tình huống.
Thủ tục: Nhà tâm lý Victor Frank đã phát minh phương pháp này, để chữa bệnh cho những người nói lắp, bằng cách yêu cầu họ cố ý cường điệu những triệu chứng của mình, sao cho khi họ thử làm như vậy, thì họ sẽ nói lưu loát. Bạn có thể làm tương tự như vậy với chính mình, bằng cách run rẩy sợ hãi mỗi khi nói trước công chúng, tức giận khi nghĩ đến những lối cư xử bất công v.v..., cho đến khi bạn cảm nghiệm được sự vô lý của toàn bộ điều này.
f. Đạt được Sức mạnh thông qua NLP
Mục đích:
Sử dụng bộ não của mình để tạo ra những thay đổi.
Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian:
Có thể học hỏi trong những khoảng thời gian 10 phút.
Khung cảnh là một hội nghị dành cho các doanh nhân, nhà quản trị, viên chức điều hành, các nhà chuyên môn và nhân viên chăm sóc sức khỏe. Chủ tọa là Richard Bandler, nhà toán học và đồng sáng lập (với John Grinder, một chuyên gia máy tính) một phương pháp rèn luyện mà họ đặt tên là: cách lập trình ngôn ngữ-thần kinh (NLP). Bandler nói với cử tọa đang chăm chú của ông: “Tôi mong các bạn hãy thử một số cuộc thử nghiệm rất đơn giản, nhằm hướng dẫn cho các bạn đôi chút về việc làm thế nào để có thể học hỏi cách điều hành bộ não của mình. Các bạn hãy nghĩ đến một kinh nghiệm rất thú vị trong quá khứ – có lẽ kinh nghiệm mà từ lâu nay các bạn đã không nghĩ đến. Hãy ngưng lại một lúc để trở về với ký ức đó, và đoan chắc rằng các bạn nhận thấy những điều mà các bạn đã từng nhận thấy, khi sự kiện thú vị đó xảy ra. Các bạn có thể nhắm mắt lại, nếu điều này làm cho các bạn dễ dàng hơn khi hồi tưởng... “Khi các bạn nhìn vào ký ức thú vị đó, tôi mong muốn các bạn hãy thay đổi sự trong sáng của hình ảnh, và nhận ra những cảm giác của mình thay đổi như thế nào để
đáp lại. Trước hết, hãy làm cho hình ảnh này càng lúc càng trong sáng hơn. Rồi các bạn hãy làm cho nó càng lúc càng mờ nhạt hơn... Bây giờ, các bạn hãy làm cho nó trong sáng hơn trở lại. Điều này làm cho cách thức các bạn cảm thấy thay đổi như thế nào? Luôn luôn có những ngoại lệ, nhưng đối với hầu hết các bạn, khi các bạn làm cho hình ảnh trong sáng hơn, thì sự trong sáng thường gia tăng cường độ của những cảm giác nơi các bạn. “Bao nhiêu người trong số các bạn có bao giờ nghĩ đến việc cố ý thay đổi sự trong sáng của một hình ảnh nội tâm, để cảm thấy sự khác biệt? Hầu hết các bạn chỉ để cho bộ não của mình tùy tiện chỉ cho các bạn thấy bất cứ hình ảnh nào mà nó muốn, và đáp lại, các bạn cảm thấy thoải mái hoặc khó chịu. Bây giờ, các bạn hãy nghĩ đến một ký ức không thú vị, điều gì đó mà các bạn cảm thấy khó chịu mỗi khi nghĩ đến. Rồi các bạn hãy làm cho hình ảnh đó càng lúc càng mờ nhạt hơn... Nếu các bạn gạt bỏ sự trong sáng đủ xa, thì nó sẽ không còn quấy rầy các bạn nữa... Sự trong sáng là một trong nhiều thứ mà các bạn có thể thay đổi... những thứ khác là: kích thước, màu sắc, khoảng cách, chiều sâu, thời gian, sự sáng tỏ, sự tương phản, hình chiếu (slide) hoặc phim ảnh, tốc độ, sự trong suốt v.v... Đối với những ai trong các bạn thực sự mong muốn học hỏi cách điều hành bộ não của mình, thì những người đó hãy chọn bất cứ kinh nghiệm nào, và cố gắng thay đổi từng yếu tố trong số những yếu tố liên quan đến thị giác này”. Bandler tiếp tục vạch ra các phương pháp khác, để xử lý kinh nghiệm bối rối của những tham dự viên về quá khứ của họ: chiếu bộ phim về một kinh nghiệm tâm thần như vậy, và nếu điều này vẫn còn làm cho bạn cảm thấy khó
chịu, thì hãy chiếu lại lần nữa, nhưng lần này, hãy chơi nhạc xiếc như thể bạn làm thế! Như một sự chọn lựa, hãy chiếu bộ phim ngược lại từ cuối đến đầu, như thể bạn đang quay nó lại từ đầu, rất nhanh. Badler đảm bảo rằng bằng cách này, có thể biến các bi kịch thành hài kịch. Mặc dù trên 15 năm qua, NLP chưa được những người sáng lập trình bày công khai, nhưng phương pháp này đã có thời gian đạt được tính phổ biến trong một bộ phận của công ty, phần nào bởi vì tựa đề đáng sợ của nó. Tuy nhiên, từ đó, phương pháp này có đà, nhờ những người truyền bá như: Anthony Robbins (Unlimited Power – Sức mạnh Vô hạn), và Tiến sĩ Harry Alder (NLP, The New Art and Science of Getting What You Want – NLP, Nghệ thuật Mới và Khoa học để Đạt được những Điều Bạn Mong muốn), người đã từng viết những cuốn sách bán chạy nhất về đề tài này. Những cuốn sách của Bandler và Grinder đều được xuất bản một cách riêng tư, và không có được một độc giả lớn. Những người thực hành phương pháp NLP đều bắt đầu khám phá được một vốn lớn các phương pháp tâm lý, để cải thiện những khả năng và thái độ của họ. Chẳng hạn, các viên chức nào có nhu cầu, nhưng gặp khó khăn trong việc xem xét một tình hình từ quan điểm của các cấp dưới của họ (hoặc bất cứ người nào khác), thì đều có thể thử quy định này: Trước hết, hãy chiếu một bộ phim về sự kiện có vấn đề trong tâm trí bạn, theo như bạn có thể nhớ được; rồi sau đó, hãy chiếu một bộ phim về cùng một sự kiện, nhìn vào nó qua vai của người khác, sao cho bạn có thể tự nhìn thấy mình khi cuộc tranh luận diễn ra. Hãy chiếu suốt bộ phim, từ đầu đến cuối, nhìn xem nó từ quan điểm
này. Theo Bandler, cách này có thể tạo ra sự khác biệt lớn lao. Một khái niệm quan trọng trong NLP thuộc về những ký ức liên kết và phân tách. “Những ký ức liên kết nghĩa là trở lại và làm sống lại kinh nghiệm, trong khi nhìn xem nó từ đôi mắt của chính mình... Bạn có thể nhìn thấy bàn tay đằng trước mặt mình, nhưng bạn không thể xem được gương mặt của mình... Ký ức phân tách nghĩa là nhìn vào ký ức từ bất cứ quan điểm nào khác với từ đôi mắt của bạn... Như thể bạn là người khác đang xem một bộ phim về bản thân mình... Khi bạn nhớ lại một ký ức liên kết, thì bạn trải nghiệm lại phản ứng cảm giác ban đầu mà bạn đã từng có vào lúc đó. Khi bạn nhớ lại một ký ức phân tách, thì bạn có thể nhìn thấy chính mình đang có những cảm giác ban đầu này trong hình ảnh, nhưng không cảm thấy chúng trong cơ thể mình... Tình huống lý tưởng là nhớ lại những ký ức thú vị được liên kết, sao cho bạn có thể dễ dàng thưởng thức tất cả những cảm giác tích cực đi kèm theo chúng. Khi bị phân tách khỏi những cảm giác không thú vị của mình, thì bạn vẫn sẽ có toàn bộ thông tin thị giác, về việc có thể bạn cần tránh né hoặc đối phó với điều gì trong tương lai, nhưng không có phản ứng cảm giác không thú vị. Tại sao một lần nữa bạn lại cảm thấy không thoải mái?... Điều mà bạn đang dạy cho bộ não mình làm, đó là liên kết với những ký ức thú vị, và phân tách khỏi những ký ức không thú vị. Bộ não của bạn sẽ đạt được ý tưởng này một cách khá sớm, và tự động làm điều tương tự đối với tất cả những ký ức khác của bạn”. Bandler nhấn mạnh rằng: “Việc dạy cho người nào đó cách liên kết và phân tách như thế nào và khi nào, là một trong những phương cách sâu xa nhất và thâm nhập nhất, để thay đổi
phẩm chất kinh nghiệm của một người, và thái độ phát xuất từ đó”. Một hình thức thái cực của kinh nghiệm không thú vị với tác dụng thường xuyên là nỗi ám ảnh, sợ hãi đối với loài chó, nhện, ruồi, thang máy, và những thứ khác. Liệu pháp NLP dạy cho bạn loại bỏ ngay lập tức những nỗi ám ảnh. Hãy thử quy định này: Trước hết, hãy tưởng tượng rằng bạn đang ngồi ở nơi nào đó chính giữa thính phòng chiếu phim. Trên màn ảnh chiếu một tấm ảnh đen trắng về chính bạn, chỉ ngay trước khi bạn cảm thấy sợ hãi. Sau đó, bạn hãy bỏ mặc cơ thể mình ở trong thính phòng, hãy tự đặt mình trong phòng chiếu phim, từ đó, bạn có thể tự nhìn thấy mình đang xem tấm ảnh của mình trên màn ảnh. Bây giờ, bạn hãy biến đổi tấm ảnh đó trên màn ảnh thành một bộ phim đen trắng, và xem nó từ đầu đến đúng lúc cuối của kinh nghiệm then chốt. Bây giờ, bạn hãy một lần nữa chuyển bộ phim này thành một slide, đưa hình ảnh vào và chiếu lại bộ phim, nhưng khi bạn chiếu lại, hãy biến nó thành một bộ phim màu, và chiếu thật nhanh, đến nỗi nó quay lại trong vòng 2 giây. Bài tập này sẽ loại bỏ được nỗi khiếp sợ của bạn. Bandler nhận xét rằng những người sợ hãi việc chứng kiến một cảnh tượng không thú vị ngay cả về mặt Tinh thần, thì đều không chú ý đến việc xem chính họ đang chứng kiến sự kiện, và đã sử dụng phương pháp NLP để khai thác tình huống. Những người thiếu động cơ, đều có thể rất được hưởng lợi từ phương pháp NLP. Họ nên tìm kiếm một người bạn có động cơ rõ rệt, và hỏi người đó cách họ chiếu bộ phim trong tâm trí như thế nào, để tự động viên mình. Chẳng hạn, hầu hết chúng ta đều có thể không ý thức về những việc
chúng ta đang làm, để thuyết phục mình thức dậy sớm vào buổi sáng, và bắt đầu đi làm. Bạn có thể làm tương tự như vậy, bằng cách hỏi những người bạn có động cơ gần gũi, xem những hình ảnh nào xuất hiện trước hết trong tâm trí họ, hối thúc họ nhảy ra khỏi giường. Chẳng hạn, một người thường xuyên thức dậy sớm có thể xem một hình ảnh sáng sủa về chính mình đang làm điều gì đó mà họ thích làm. Điều này động viên người đó thức dậy sớm, và quên đi cảm giác không thoải mái của họ về mặt thể lý. Chắc hẳn quá trình tương tự sẽ động viên người đó đối với bất cứ việc gì họ làm. Hầu hết chúng ta đều chịu đựng sự giới hạn đối với đủ mọi loại niềm tin. Chúng ta có thể tin rằng mình không có khả năng lái xe trên những con đường đông đúc, rằng mình bị thiếu khả năng tổ chức, thiếu sức mạnh ý chí để giảm cân thừa, rằng mình sẽ không có khả năng để học bơi hoặc trở thành một vận động viên chuyên đánh tennis v.v... Sau đây là thủ tục của phương pháp NLP, để loại bỏ niềm tin què quặt đó, vốn cản trở con đường thành công của bạn: Trước hết, bạn hãy khám phá xem mình biểu thị những niềm tin giới hạn của mình về mặt Tinh thần như thế nào. Chẳng hạn, bạn tin rằng mình sẽ thiếu nghị lực để giảm cân. Bạn biểu thị tình trạng này như thế nào trong tâm trí? Bạn có tự nhận thấy mình mập mạp dưới những màu sắc trong sáng không? Hoặc hình ảnh này mờ nhạt? Kích thước của hình ảnh này thế nào? Nó có ba hoặc hai chiều kích? Bạn hãy dành một số thời gian để thử nghiệm và khám phá. Sau đó, bạn hãy nghĩ đến việc mình biểu thị mối hoài nghi trong tâm hồn ra sao, nghĩa là điều gì đó mà bạn có thể cảm thấy có thể thật hoặc không thật. Chẳng hạn, bạn có thể có
những mối hoài nghi về khả năng của mình với tư cách là một vận động viên tennis. Hoặc bạn có thể hoài nghi về hiệu quả của loại thuốc nào đó. Sự khác biệt về kích thước của hình ảnh và những đặc điểm khác đã được thảo luận trước đây ra sao? Hãy trắc nghiệm khả năng của từng đặc điểm, để thay đổi niềm tin của bạn thành mối hoài nghi. Nghĩa là hãy thay đổi những đặc điểm của cách thức bạn hình dung mình đang giảm cân như thế nào, thành những đặc điểm của cách thức bạn hình dung mình đang chơi tennis, hoặc cách thức bạn hình dung hiệu quả đáng nghi ngờ của loại thuốc đang bàn đến ra sao. Sau khi trắc nghiệm từng đặc điểm, bạn hãy đổi lại thành đặc điểm cũ, trước khi trắc nghiệm đặc điểm kế tiếp. Bạn thích thay đổi niềm tin gì mới cho niềm tin giới hạn trước đây? Hãy phát biểu điều này một cách tích cực: “Tôi có thể dễ dàng giảm cân”. Trong khi duy trì việc biểu thị bên trong về niềm tin giới hạn của mình, bạn hãy thay đổi tất cả những đặc điểm đối với đặc điểm nào diễn tả mạnh mẽ nhất về mối hoài nghi, chẳng hạn, nếu niềm tin được biểu thị bằng một bộ phim, hoặc mối hoài nghi được biểu thị bằng một hình ảnh yên tĩnh, thì bạn hãy ngăn cản bộ phim này. Sau đó, bạn hãy thay đổi nội dung, để diễn tả niềm tin mới mà bạn muốn đưa vào, và cuối cùng, hãy thay đổi đặc điểm của mối hoài nghi thành đặc điểm của niềm tin. Chẳng hạn, chắc hẳn bạn tin rằng mặt trời sẽ mọc vào sáng mai, bạn hình dung niềm tin này như thế nào? Hãy ghi chú từng đặc điểm. Hãy thay đổi những đặc điểm nơi hình ảnh của bạn về bản thân trong việc giảm cân, sau khi bạn đã thay đổi chúng thành những đặc điểm nơi hình ảnh của bạn về bản thân trong việc chơi tennis – thì sau đó, bạn hãy thay đổi chúng
thành những đặc điểm nơi niềm tin của bạn về việc mặt trời mọc. Điều này sẽ tạo thành một thói quen. Hầu hết chúng ta đều thích có khả năng từ bỏ một số thói quen của mình (được định nghĩa như là một phản ứng tự động mà chúng ta không kiểm soát được), như cắn móng tay, hoặc mất bình tĩnh, không nói đến thói quen hút thuốc lá, hoặc uống cà phê. Cách thức NLP xử lý một tình huống như vậy như sau: Trước hết, bạn hãy nhận ra mình muốn thay đổi thói quen gì. Thứ hai, hãy nhận ra những điều mà bạn đang thực sự nhìn thấy, bên trong, ngay trước khi bạn tỏ thái độ không ưa, tốt hơn, nên bắt đầu có thái độ đó, và khi bạn làm như vậy, hãy phát sinh một hình ảnh liên kết với thái độ đó. Bởi vì hình ảnh được liên kết, nên cảm giác thích thú hoặc không ưa cũng sẽ xảy ra. Thứ ba, hãy tạo ra một hình ảnh phân tách của kết quả mà bạn nhìn thấy. Thứ bốn, hãy thay đổi hai hình ảnh này theo cách thức như sau: Hãy bắt đầu bằng cách xem hình ảnh liên kết trước hết, thật to lớn và sáng sủa. Sau đó, hãy đưa vào một hình ảnh phân tách thật nhỏ bé và tối tăm, về kết quả mà bạn mong muốn ở góc dưới thấp, bên phải. Kế tiếp, hãy thay đổi qua lại hai hình ảnh trong một lúc, sao cho hình ảnh nhỏ bé và tối tăm sẽ phát triển thành to lớn và sáng sủa, và sẽ che phủ hình ảnh đầu tiên, vốn mờ nhạt và co rút lại coi như không còn tồn tại nữa. Sau đó, bạn hãy xóa bỏ màn ảnh và mở mắt ra. Hãy lập lại thủ tục thay đổi năm lần, đoan chắc rằng bạn đều xóa bỏ màn ảnh mỗi lần bạn hoàn tất nó. Sau cùng, bạn hãy thử lại để phát sinh hình ảnh đầu tiên. Nếu thủ tục của bạn có hiệu quả, thì bạn sẽ nhận thấy công việc này thật
khó khăn. Hình ảnh sẽ có khuynh hướng tan biến, và được thay thế bằng hình ảnh thứ hai. Mặc dù không có cách nào hình ảnh này làm cạn kiệt vốn của những điều mà phương pháp NLP có khả năng đạt được, nhưng nếu bạn có một tinh thần nội quan phiêu lưu, và kiên nhẫn để thử các phương pháp của NLP, thì bạn sẽ càng đi xa. Sau đây là phác thảo một số yếu tố khởi xướng về thái độ mới mà bạn có thể sử dụng: 1/ Hãy chọn một tình huống mà trong đó, bạn mong muốn có thái độ mới, nghĩa là một cuộc họp mà trong đó, bạn mong muốn phát biểu một cách hùng biện; 2/ Hãy chọn một bộ phim trội vượt về thái độ này; 3/ Hãy nhìn xem và lắng nghe, trong tâm trí mình, lối cư xử kiểu mẫu trong tình huống này; 4/ Hãy thay đổi hình ảnh và tiếng nói của bạn đối với lối cư xử kiểu mẫu; 5/ Hãy can thiệp vào bộ phim, để biến nó thành một kinh nghiệm liên kết và trải nghiệm cảm giác của cơ thể; 6/ Hãy chỉ đạo tốc độ tương lai, nghĩa là tự dành cho mình một gợi ý, điều gì đó như cùng đưa ba ngón tay của bạn lên, để khởi sự thái độ mới. Hãy thực hành thái độ này đủ thường xuyên, và cuối cùng, bạn sẽ trở nên tốt đẹp giống như kiểu mẫu của bạn. Ngay trong trường hợp bạn không thể nghĩ ra một kiểu mẫu để tranh đua, và bạn lại không muốn thay đổi bất cứ niềm tin giới hạn nào, thì sau đây là một cách suy niệm hàng ngày, mà bạn có thể sử dụng để đạt được tiềm năng đầy đủ của mình: Mỗi tối, sau khi lên giường, bạn hãy dành ra từ 15 đến 20 phút trước khi bạn thực sự ngủ. Hãy nằm ngửa lưng. Thư giãn tất cả các bắp thịt của bạn và hít thở thật sâu ba
lần. Sau đó, hãy tự nhủ: “Tiềm thức của tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết, để làm cho tôi cư xử một cách nhìn xa trông rộng, nhã nhặn, quả quyết và sáng tạo, như thể tôi vẫn có khả năng trong từng hoạt động của cuộc đời mình”. Sau đó, bạn hãy đếm ngược từ 300 đến 1. Hầu hết mọi người đều ngủ được từ lâu trước khi họ đếm tới số 1. Nếu bạn cũng làm như vậy thì thật tốt. Nếu bạn quên mất tổng số đếm được ở bất cứ chỗ nào trong khi đếm, nhưng bạn vẫn không buồn ngủ, thì bạn hãy đếm lại bất cứ chỗ nào bạn nghĩ rằng mình có thể quên mất tổng số đếm được. Nếu bạn đếm tới số 1 trước khi buồn ngủ, thì bạn hãy lập lại lời phát biểu mà bạn đã khởi sự, rồi sau đó bạn cứ ngủ thoải mái. Bandler đoan chắc với bạn rằng lối cư xử của bạn sẽ tiến triển tới mức trưởng thành và đạt hiệu quả hơn nhiều, nếu mỗi đêm bạn đều lập lại công thức này. Với kho vũ khí này của các phương pháp NLP vốn tạo được sức mạnh lớn lao, thì bạn có thể sẵn sàng trong việc tự-củng cố bản thân và hoàn thành ước nguyện của mình.
g. Đối thoại với Bộ não
Mục đích: Sử dụng trí tưởng tượng để gia tăng tối đa tiềm năng của bạn. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Có thể thực hành trong khoảng thời gian 10 phút cho hầu hết phần.
Jean Houston, người từng xuất hiện cả ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng Mỹ, với tư cách là nhà tư vấn Tinh thần cho bà Hillary Clinton, đã tư vấn cho các công ty hàng đầu trên khắp thế giới, về việc mở rộng tiềm năng nơi các nhân viên của họ, qua cùng loại phương pháp mà bà đã từng sử dụng đối với bà Hillary Clinton: như để cho bà tưởng tượng về cách tìm kiếm lời khuyên nơi các kiểu mẫu vai trò của bà, như Eleanor Roosevelt và Mahatma Gandhi. Tiến sĩ Houston, Giám đốc Quỹ Tài trợ Nghiên cứu Tâm trí, New York, và người đoạt giải Nhà Giáo dục Xuất sắc đối với Phần thưởng trong Năm (Mỹ) vào năm 1985, có một vốn các phương pháp khác nhau, mà bà đã trình bày chi tiết trong những cuốn sách của bà, đặc biệt nhất là The Possible Human (Con người Có Khả năng Chịu đựng), Life Force (Sức mạnh Cuộc sống), và Listening to the Body (Lắng nghe Cơ thể), băng video và cassette để nghe, và hàng ngàn chương trình mà bà đã hướng dẫn cho các thân chủ trên
khắp thế giới như: General Dynamics, General Electrics, General Foods, General Motors, IBM và Tata Group of Companies tại Ấn Độ. Bà viết: “Với tư cách là một người có chuyên môn về việc phát triển con người, tôi thường xuyên có cơ hội tham dự các hội nghị được bố trí cho những người lên kế hoạch về xã hội và đứng đầu các công ty, những người rèn luyện và lên kế hoạch cho thế giới hiện đại. Rất thông thường, việc lắng nghe những phán đoán và đánh giá của họ chính là đấu tranh với bóng tối. Đó chính là tham gia vào các hội nghị phần lớn đều đầy ắp những tầm nhìn phù phiếm, những viễn cảnh tiêu cực, mất niềm hy vọng, với các nhà kỹ trị hứa hẹn một hành động ảo thuật, từ loại thuốc bách bệnh nào đó về mặt công nghệ”. Tiến sĩ Houston sống tại Ấn Độ trong thập niên 1980, theo lời mời của Trụ sở về các Vấn đề Văn hóa, và cũng tại đây, bà đã lôi kéo được những đám đông lớn ở công ty. Trong một cuộc hội thảo tại Bệnh viện Piramal, Mumbai, Tiến sĩ Houston đã giải thích về cách bà làm thế nào để khám phá được phương pháp đối thoại với các kiểu mẫu vai trò, bà nói: “Có lần cha tôi và tôi đến thăm Edgar McCarthy, người có tài nói tiếng bụng nổi tiếng. Chúng tôi nghĩ rằng ông ấy đang diễn tập. Nhưng khi lắng nghe thật gần, thì chúng tôi nghe thấy ông ấy hỏi: ‘Charlie, cuộc sống thực sự nói về cái gì?’. Ông ấy đang thực sự trút hết tâm hồn mình cho một con rối! Khi chúng tôi tỏ ra ngạc nhiên, thì ông ấy đã trả lời thẳng thừng: ‘Nhưng Charlie rất nhạy cảm! Nó biết tất cả những nhu cầu của tôi. Nó còn sáng chói hơn cả tôi nữa’”.
Từ kinh nghiệm này, Houston đã rút ra khái niệm của bà về con người chúng ta: con người giới hạn thuộc về địa phương, và con người hoàn hảo mở rộng. Trong các cuộc hội thảo của mình, bà đã cố gắng kết hợp hai con người, nhằm tạo khả năng cho những năng lực của con người được triển nở đến tiềm năng đầy đủ nhất của chúng. Khái niệm của Tiến sĩ Houston về con người bị giới hạn và được mở rộng không chỉ hoàn thiện về tâm trí và trí tưởng tượng, mà còn hoàn thiện cả về cơ thể nữa. Bằng cách sử dụng khái niệm về cơ thể mang cảm giác vận động, bà đã nghĩ ra các bài tập mà trong đó, bà yêu cầu những tham dự viên hình dung về cơ thể lý tưởng, rồi sau đó, kết hợp cơ thể thực sự của họ với cơ thể lý tưởng đó. Bà tuyên bố rằng bài tập này đã tạo khả năng cho các đối tượng của bà củng cố được thành tích của cơ thể họ rất nhiều. Bà viết: “Có thể sử dụng cơ thể mang cảm giác vận động để giữ vững sự rắn chắc của các bắp thịt, nếu bạn đang bị đau ốm trên giường hoặc nói cách khác bị hạn chế, ngay cả trong tình cảnh giới hạn của cuộc hành trình bằng máy bay. Bạn hãy thực hiện nhiều động tác nhỏ ở một bên của cơ thể. Những động tác này có thể bao gồm một chuỗi khoảng 25 động tác, mỗi động tác bao gồm việc gõ nhẹ các ngón tay, chuyển động cẳng chân lên xuống từ khớp háng, lắc lư từng ngón chân v.v... Xen kẽ mỗi chuỗi động tác thực sự bằng những động tác mang cảm giác vận động (nghĩa là những động tác tưởng tượng về cơ thể lý tưởng của bạn). Khi làm như vậy, bạn báo hiệu cho vỏ não vận động, để thư giãn các bắp thịt bị co rút, và cho phép mạch máu được tự do lưu thông hơn, do đó, cải thiện được hệ tuần hoàn. Như một kết quả của sự hòa hợp tinh tế và loại bỏ tình trạng co rút của các bắp thịt này, toàn
bộ cơ thể được kéo dài ra, trở nên nới lỏng hơn, và kết hợp hơn với các phần khác của cơ thể”. Tiến sĩ Houston tin rằng “có thể trực tiếp ‘nói’ với bộ não, rèn luyện nó, nếu bạn muốn, giống như bạn có thể sử dụng môn thể dục mềm dẻo để rèn luyện thân thể”. Bà đã nghĩ ra các bài tập rèn luyện nhằm gia tăng khả năng của bộ não, để “cân nhắc nhiều khả năng, mặc dù kỳ quặc, mà không có sự can thiệp sớm của Thẩm phán nơi chúng ta, người được huấn luyện kỹ để gõ cái búa xuống, và tuyên bố là ‘Không thể được!’, ‘Sẽ không hoạt động!’, ‘Vụ kiện bị giải tán!’, ngay cả trước khi cuộc thử nghiệm bắt đầu”. Nhưng bạn làm thế nào để nói với bộ não một cách có hiệu quả nhất? Theo Tiến sĩ Houston, trước hết, bạn nên thử kết hợp những chức năng của bộ não bên phải và bộ não bên trái. Nơi hầu hết mọi người, bán cầu bên trái của bộ não thường chi phối, nên nó hợp lý và mang tính cách tuyến tính trong những hoạt động của nó, trong khi bán cầu não bên phải lại suy nghĩ theo bản năng và thông qua trí tưởng tượng. Sự kết hợp có thể hỗ trợ và thúc giục, bằng cách lần lượt hình dung những mẫu tự của bảng chữ cái, và những chữ số, cùng với mắt phải, do bộ não bên trái kiểm soát, và cùng với mắt trái, do bộ não bên phải kiểm soát. Tương tự, bạn cũng nên hình dung riêng biệt cảnh tượng thực sự hoặc tưởng tượng khác nhau với từng con mắt. Bước kế tiếp là hít thở thật sâu, và trong khi bạn hít vào, hãy tưởng tượng rằng bộ não đang mở rộng, và trong khi bạn thở ra, hãy tưởng tượng rằng bộ não đang co lại. Sau đó, hãy để cho bộ não nghỉ ngơi và trực tiếp gợi ý cho nó, bằng cách giữ lại hình ảnh của nó trong tâm trí mình nếu bạn thích như vậy hơn, thì từ nay trở đi, những con số đang gia tăng của các tế bào não
sẽ có thể đi tới với bạn, và sự tương tác của các tế bào trong cả hai bán cầu não sẽ cải thiện và được kết hợp hơn nữa. “Bạn hãy báo cho bộ não của mình biết rằng nhiều trong số những tiềm năng tiềm tàng của nó sẽ trở nên rõ rệt, và bạn sẽ cố gắng làm việc cùng với bộ não trong sự cộng tác, để cho phép những tiềm năng này phát triển trong cuộc sống. Bây giờ, bạn hãy lắng nghe và nhận xét xem bộ não của bạn có bất cứ thông điệp nào đối với bạn hay không. Những thông điệp này có thể đến như là những lời nói, hoặc hình ảnh, hoặc cảm giác. Hãy dành cho bộ não thì giờ để đáp lại, bằng cách kiềm chế phê phán. Bộ não của bạn mong muốn điều gì đó từ bạn? Bộ não muốn mang lại điều gì cho bạn? Bạn sẽ đạt được sự thông thạo về việc tương tác với bộ não một cách hiệu quả chẳng bao lâu nữa, mặc dù có thể ban đầu bạn nhận thấy toàn bộ bài tập này vẫn còn khá xa lạ. Tiến sĩ Houston khuyên rằng bạn hãy giúp đỡ bộ não của mình, và nói chuyện với nó như nói chuyện với một đối tác. Nếu ban đầu bạn thất bại trong những cố gắng để tham gia vào việc nói chuyện với bộ não, thì có thể bởi vì bạn đang cố gắng quá sức. Vì những kết quả tốt nhất, bạn hãy đoan chắc rằng mình được thư giãn và ở trong một tâm trạng không phê phán. “Khía cạnh đặc biệt nhất của việc tập luyện này là tính cách đa dạng của những phản ứng khác nhau mà người ta vẫn báo cáo – tất cả mọi sự, từ tình trạng buồn ngủ rõ rệt, đến việc hình dung màu sắc trong lần đầu tiên... Ngay cả cùng một người thực hiện việc tập luyện vào những lúc khác nhau, mà không thay đổi những chỉ dẫn bằng bất cứ cách nào, thì họ vẫn thường báo cáo một kinh nghiệm rất khác nhau vào mỗi lần. Dường như bộ não là một chiếc kính vạn hoa thực sự, bộc lộ những kiểu mẫu và tầm nhìn mới mẻ, với sự thay đổi qua loa nhất về chiếc thấu kính”.
Tiến sĩ Houston vẫn đang sử dụng thần thoại Ấn Độ để nâng cao tính sáng tạo của những tham dự viên trong các cuộc hội thảo. Trên chuyến hành trình đến Ấn Độ, bà đã yêu cầu các đối tượng của bà tạo thành các cặp. Người lớn tuổi hơn sẽ nhận vai trò của một vị thần hoặc nữ thần, trong khi người kia sẽ là một người van xin đang nói lên tình trạng hiện tại của mình, nhấn mạnh vào bất cứ trở ngại nào về mặt tinh thần có thể đang cản trở họ tiến bộ. Người đóng vai “vị thần” sẽ đưa ra lời khuyên, không phải từ bên trong khuôn khổ giới hạn của một người hoặc một nhà tâm lý, nhưng với tư cách là một thánh thần vĩ đại hơn. Các đối tác sẽ lần lượt trao đổi vai trò của họ, bây giờ người trẻ tuổi hơn nhận vai trò của vị thần. Tiến sĩ Houston kết thúc cuộc hội thảo bằng cách cho những tham dự viên ca hát và nhảy múa, theo câu thần chú động viên đầy sức mạnh sau đây: “Thật gần gũi, nhưng thật khó thấu hiểu được vị thần. Nhưng ở đâu có nguy cơ, thì những sức mạnh giải cứu cũng đều xuất hiện...”.
2 Khả năng thôi miên của bạn: Yếu tố Chữa lành và Hoàn tất
Khi đang trên đường về nhà trễ vào buổi tối, Rajani, một giáo viên trung học, đã bị hai người đàn ông và một phụ nữ xa lạ gạ gẫm trên một con đường vắng vẻ. Họ bắt đầu chọc ghẹo, bao vây bà, đưa ra những gợi ý làm tình, nếu không thì dọa nạt bà. Ban đầu, bà từ chối, rồi sau đó, bà đã phản ứng dữ dội, và cuối cùng, càng lúc bà càng trở nên sợ hãi, khi những kẻ tấn công viện dẫn đến cách ức hiếp, dường như để tiên báo vụ cưỡng hiếp. Bà quyết định la lớn hết sức có thể, nhưng không một âm thanh nào phát ra từ miệng bà. May thay vào lúc đó, mọi người nghe thấy một tiếng còi của xe cảnh sát đang chạy qua, và những kẻ quấy rầy Rajani đã nhanh chóng tẩu thoát.
Rajani chạy tới trạm tàu lửa gần nhất, nơi bà đón tàu lửa về nhà. Tuy nhiên, trên đường về nhà, bà nhận thấy mình trở nên bị nói lắp một cách rất tồi tệ, đến nỗi bà phải viết một bản mô tả về sự kiện này, vì ích lợi đối với người chồng và các con đang rất bối rối và hoảng hốt của bà. Một bác sĩ được mời đến, và ông ấy đã kê toa vài viên thuốc an thần, và trấn an mọi người rằng bà sẽ khỏe lại sáng hôm sau. Nhưng khi thức dậy vào hôm sau, Rajani phát hiện rằng chứng nói lắp của mình vẫn còn. Vì thế, bà không có điều kiện đến trường dạy học. May thay, chỉ còn lại vài ngày cho kỳ nghỉ Diwali, nhưng bà bắt đầu sợ hãi ngày nhà trường mở cửa lại, và bà cũng bắt đầu bị mất ngủ. Bây giờ, tình trạng mất ngủ liên kết với chứng nói lắp quấy rầy cuộc sống của Rajani. Bà hỏi ý kiến một nhà tư vấn. Bà ấy đề nghị phương pháp tự-thôi miên. Tuy nhiên, Rajani càng sợ hãi hơn đối với viễn cảnh bị thôi miên. Nhưng khi bà được giải thích rằng chính bà sẽ thực hiện việc thôi miên, một mình nếu bà muốn, và không hề có nguy hiểm gì trong việc này, thì bà đồng ý thử. Bà đã thành công và phục hồi nhanh chóng từ hai vấn đề đồng thời của bà. Ngoài ra, bây giờ, bà còn bắt đầu sử dụng thuật tự-thôi miên, để nâng cao tính sáng tạo của mình và giải quyết bất cứ vấn đề nào khác mà bà có thể gặp phải.
Phương pháp được đưa ra như sau: Tự-Thôi miên
Mục đích:
Để điều trị tình trạng hoảng hốt, lo lắng, sợ hãi, mất ngủ, nói lắp, nâng cao tính sáng tạo, loại bỏ tình trạng đau đớn kinh niên, và gia tăng tối đa tiềm năng của con người.
Thời gian:
Dưới 10 phút mỗi kỳ, sau khi đã quán triệt phương pháp này. Có thể mất khoảng một tuần để quán triệt, trong những kỳ từ ½ giờ đến một giờ mỗi ngày.
Tư thế:
Ban đầu, bạn hãy ngồi hoặc nằm tại một chỗ yên tĩnh, nơi bạn sẽ không bị quấy rầy hoặc gây sao lãng. Sau này, bạn có thể thực hiện bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào, trong bất cứ tư thế nào thoải mái.
Cẩn thận: Nguy cơ chính của phương pháp tự-thôi miên là loại khái niệm sai trái trên phạm vi lớn, do công chúng tin tưởng rộng khắp, nhưng lại không có cơ sở. Vì thế, trước khi bắt đầu tự-thôi miên, bạn nên hiểu biết những cơ sở lập luận sau đây về phương pháp này: 1. Tự-thôi miên tuyệt đối an toàn.
2. Không có gì nguy hiểm khi tự-thôi miên, bạn sẽ tự đặt mình trong trạng thái cởi mở, để được những người xa lạ thôi miên. 3. Không có gì nguy hiểm khi tự-thôi miên, bạn sẽ không thể bị hôn mê. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là bạn sẽ cảm thấy rất thư giãn, đến nỗi bạn sẽ đi ngủ, thức dậy sau một số phút hoặc giờ, rất khỏe khoắn. 4. Trong suốt thủ tục bước đầu của việc tự-thôi miên, bạn sẽ hoàn toàn có ý thức và tự kiểm soát mình đầy đủ. 5. Khả năng thôi miên không biểu thị trí thông minh thấp. Ngược lại, khi khả năng tưởng tượng của bạn càng lớn hơn, thì bạn sẽ càng thành công hơn trong việc tự-thôi miên và gặt hái được những ích lợi của nó. 6. Thôi miên không liên quan đến ma thuật. Đây là một phương pháp thuần túy khoa học, vốn sử dụng những nguồn lực từ vô thức vì ích lợi của bạn. Thủ tục: Giai đoạn I 1. Bạn hãy ngồi thoải mái trên một cái ghế dựa, hai bàn chân đặt bằng phẳng trên sàn nhà, hoặc ngồi xuống đất, bắt chéo hai cẳng chân. Đặt bàn tay trên đầu gối của bạn. Lưng thẳng, đầu không tựa. Đoan chắc rằng bạn sẽ không bị những cú điện thoại hoặc các khách khứa quấy rầy trong vòng ít nhất một giờ.
2. Hãy chọn một vật dụng nhỏ (một cây đinh hoặc một cái bóng đèn), hoặc vết lằn trên bức tường đối diện với bạn, ở mức độ cao hơn đôi mắt của bạn – cao hơn khoảng từ 3 đến 5 feet. 3. Giữ đầu bạn ngang bằng, và nhìn chằm chằm vào vật dụng trên tường, sao cho đôi mắt của bạn hướng lên. Hãy cố gắng không chớp mắt. Đừng di chuyển đôi mắt khỏi vật dụng. 4. Hít thở ba hơi thật sâu. 5. Lập lại với chính mình bằng một giọng thấp đều đều hoặc nói thầm: “Đôi mắt của tôi nặng trĩu. Càng lúc chúng càng nặng hơn, nặng hơn và nặng hơn, nặng như chì, nặng hơn và nặng hơn...”. Tiếp tục lập đi lập lại liên tục, trong khi bạn vẫn nhìn chằm chằm vào vật dụng. 6. Chẳng bao lâu nữa, đôi mắt của bạn sẽ cảm thấy sự trĩu nặng nào đó, và thôi thúc để khép lại. Khi xảy ra tình trạng này, thì bạn hãy nói bằng giọng đều đều hoặc nhủ thầm: “Ba, đôi mắt tôi rất nặng trĩu, nên chúng đang khép lại. Rất nặng trĩu, nên chúng đang khép lại. Rất nặng trĩu, nên chúng đang khép lại”. Rồi hãy để cho chúng khép lại. 7. Ngay khi nhắm mắt lại, bạn hãy nói vài lần chậm rãi: “Hai, đôi mắt tôi nhắm lại. Hai, đôi mắt tôi nhắm lại...”. 8. Bây giờ, bạn hãy nói vài lần: “Một, đôi mắt tôi bị mắc kẹt, nhắm thật chặt, như thể bị dán lại. Một, đôi mắt tôi nhắm thật chặt, như thể bị
dán lại”. Trong khi lập lại một cách đều đều với chính mình, thì bạn hãy hình dung rằng thật nhiều keo đang đổ vào mi mắt bạn, hoặc keo đang kín đáo từ bên trong đôi mắt bạn và dính chặt vào mi mắt bạn. Hãy tiếp tục hình dung tình trạng này và những hình ảnh củng cố phù hợp khác mà bạn có thể nghĩ đến, như những quả cân nặng trĩu treo từ trên mi mắt bạn. Sau khi bạn lập lại đủ thường xuyên – nếu cần, đến 100 lần hoặc hơn nữa -, thì bạn sẽ cảm thấy sự nặng trĩu và dính chặt trong mi mắt mình. Khi điều này xảy ra, bạn hãy nói: “Một, đôi mắt tôi nhắm rất chặt, đến nỗi bất kể tôi cố gắng mở ra đến thế nào, thì tôi vẫn không thể mở mắt ra được”. Hãy lập lại câu này vài lần, nhưng đừng cố gắng mở mắt ra. 9. Bây giờ, bạn hãy nói: “Mỗi lần tôi nói: Ba, Hai, Một, với ý định đi vào trạng thái hôn mê của sự thôi miên, thì đôi mắt tôi sẽ nhắm lại, và vẫn tiếp tục nhắm, bất kể tôi hết sức cố gắng mở ra đến thế nào, thì chúng vẫn sẽ càng nhắm chặt hơn”. Hãy lập lại câu này vài lần, nhưng đừng cố gắng mở mắt ra. 10. Bây giờ, bạn hãy nói: “Bây giờ, tôi sẽ nói: Một, Hai, Ba. Khi tôi nói như vậy, trong trạng thái thôi miên, thì đôi mắt tôi sẽ ngay lập tức mở ra, và tôi sẽ ra khỏi tình trạng hôn mê, thật khỏe khoắn và đầy sinh lực. Một: Tôi đang thức giấc. Hai: Mi mắt tôi nhắm kín và đang mở ra. Ba: Đôi mắt tôi đã mở ra”. Sau đó, bạn hãy mở mắt ra. Hãy hít thở ba lần thật sâu và thức dậy.
11. Hãy lập lại chuỗi (các bước) từ 1 đến 10, trong suốt một tuần thường xuyên như bạn có thể, cẩn thận đảm bảo rằng bạn không cố gắng mở mắt ra, trước khi đếm: Một, Hai, Ba. Nếu trong bất cứ trường hợp tình cờ nào, ở bất cứ giai đoạn nào, có những cản trở không mong muốn, thì bạn hãy nói thật nhanh: Một, Hai, Ba, rồi mở mắt ra, và đối phó với sự cản trở này. Sau đó, hãy trở lại với bước đầu của chuỗi các giai đoạn từ 1 đến 10. 12. Sau một tuần hoặc khoảng chừng ấy, khi bạn đã hoàn tất bước 8, bạn sẽ cảm thấy đôi mắt mình thực sự nhắm lại rất chặt. Nếu vậy, thì bạn hãy cố gắng thật nhẹ nhàng, với rất ít nỗ lực để mở mắt ra. Ngay khi chúng bộc lộ sự phản kháng nhẹ nhàng nhất, thì bạn đừng tiếp tục cố gắng mở mắt ra, và hãy tiến sang bước 9. 13. Ngày hôm sau, khi bạn tiếp cận bước 9, hãy cố gắng hơi nhiều hơn để mở mắt ra. Và vào ngày mà sau khi bạn phần nào cố gắng nhiều hơn, lúc bạn tin rằng mắt sẽ không mở ra, thì bạn hãy hết sức cố gắng theo như bạn thích, và đôi mắt vẫn sẽ không mở ra, cho đến khi bạn đếm: Một, Hai, Ba.
Giai đoạn II Khi bạn đã hoàn tất giai đoạn I về phương pháp tựthôi miên, thì bạn sẵn sàng để sang giai đoạn II – đào sâu trạng thái hôn mê: A. Bạn hãy xuyên suốt chuỗi từ 1 đến 8 của giai đoạn I. Sau đó, hãy tự nhủ: “Bàn tay phải của tôi đang cảm thấy nhẹ nhàng và cất lên khỏi ý muốn riêng của nó. Cất lên... Cất lên... Cất lên...”. Khi nói câu này một cách thật chậm rãi, lập đi lập lại và đều đều, thì bạn hãy hình dung rằng cổ tay mình cột vào một sợi dây, đang được một cái cần cẩu mạnh mẽ kéo lên. Hãy hình dung rằng cánh tay bạn đầy ắp một loại khí nhẹ, thay vì có thịt và xương, sao cho nó rất nhẹ và cất lên. Hãy cố gắng cảm nhận được cảm giác nhẹ nhàng trong cánh tay mình. Chẳng bao lâu nữa, cánh tay bạn sẽ cảm thấy thực sự kéo căng, và sẽ bắt đầu thực sự tự cất lên, mà không có bất cứ nỗ lực nào về phía bạn. Có lẽ ban đầu, các ngón tay của bạn sẽ có khuynh hướng chuyển động hướng lên. Đừng giữ bàn tay hoặc cánh tay hướng xuống. Cứ để cho nó cất lên. Hãy khích lệ nó, bằng cách tiếp tục hình dung rằng cái cần cẩu đang kéo cánh tay bạn lên và lập lại: “Hãy cất lên. Cao hơn và cao hơn. Cao hơn và cao hơn...”. Hãy để cho nó cất lên và chạm vào đầu bạn. Sau đó, bạn hãy nói: “Bây giờ, tôi ở trong trạng thái thôi miên thật sâu. Mỗi khi tôi để cho bàn tay cất lên và chạm vào đầu tôi, thì tôi sẽ càng đi vào trạng thái thôi miên thật sâu hơn và sâu hơn nữa”.
B. Bây giờ, bạn hãy nói: “Bây giờ, cánh tay tôi đạt được trở lại trọng lượng bình thường của nó và rơi xuống đùi tôi”. Từ từ, cánh tay sẽ rơi xuống. C. Hãy lập lại các bước A và B vài lần, để đào sâu trạng thái hôn mê của bạn. D. Khi bạn ở trong trạng thái hôn mê, hãy cố gắng thử hình dung những vật dụng nhiều màu sắc. Hãy chú ý rằng chúng sống động hơn nhiều so với trong trí tưởng tượng bình thường. E. Hãy cố gắng tưởng tượng những mùi vị và hương thơm khác nhau. Một số người thành công hơn những người khác trong việc này. F. Trong trạng thái hôn mê sâu, bạn tự đưa ra cho mình những đề nghị phù hợp như: “Mỗi ngày, tôi sẽ cảm thấy càng ngày càng ít hút thuốc lá hơn (hoặc ‘uống rượu’, hoặc ‘lãng phí thì giờ’ v.v...). Tôi đang cảm thấy vô cùng căm ghét việc này, cực kỳ căm ghét, đến nỗi hầu như tôi không thể chịu đựng nổi tư tưởng hút thuốc lá”. Hãy lập lại câu này mỗi ngày, cùng với những ích lợi của việc từ bỏ thói quen này, thì chẳng bao lâu nữa, bạn sẽ từ bỏ được nó. G. Bạn có thể gây ra tình trạng tê cóng trong bàn tay mình. Hãy đi vào trạng thái hôn mê thật sâu, bằng cách đếm 3, 2, 1, đào sâu trạng thái hôn mê, rồi sau đó, hãy đề nghị bàn tay của bạn tê cóng đi. Hãy nói: “Bàn tay tôi hoàn toàn bị tê cóng, và không thể cảm thấy bất cứ cảm giác nào”. Hãy lập lại câu này liên tục, trong khi hình dung rằng bàn tay và cánh tay mình bị cho vào một cái túi nước đá.
Khi bạn cảm thấy hơi thiếu cảm giác hoặc tê cóng, hãy nói: “Bây giờ, cảm giác của tôi đang trở lại bình thường”. Cảm giác sẽ trở lại. Hãy lập lại bước này trong vài kỳ, cho đến khi bạn cảm thấy tê cóng rõ ràng, rồi bạn hãy véo nhẹ vào bàn tay mình. Qua từng kỳ, bạn hãy véo mạnh hơn, cho đến khi bạn cảm thấy dứt khoát không còn cảm giác nữa. Sau đó, hãy nói: “Bất cứ khi nào tôi chạm bàn tay tê cóng của tôi vào bất cứ phần nào khác của cơ thể, thì chỗ đó cũng sẽ trở nên tê cóng”. Rồi bạn có thể sờ bàn tay vào nướu răng của mình, khi bạn bị nhức răng, trước khi đến nha sĩ để được chăm sóc răng. Cẩn thận: Sự đau đớn là một cảnh báo rằng điều gì đó bất ổn. Đừng sử dụng phương pháp tự-thôi miên để loại bỏ cơn đau, mà không trước hết đến khám bác sĩ và điều trị. H. Hãy tự để cho mình ở trong trạng thái tự-thôi miên mỗi tối, trước khi đi ngủ và nói: “Mỗi sáng, một vấn đề mà tôi đương đầu sẽ tiến gần hơn đến giải pháp, bởi vì vô thức của tôi vẫn làm việc trong khi tôi ngủ. Vào buổi sáng của một trong những ngày này, tôi sẽ thức giấc với các vấn đề của tôi đều đã được giải quyết”.
Phương pháp Tự thôi miên của Betty Erickson Một số giả thiết cơ bản Phương pháp tự-thôi miên này dựa trên các giả thiết sau đây. Trong khi có nhiều phản-ví dụ đối với các khái niệm đó, thì chúng vẫn sẽ có giá trị trong việc hiểu biết và sử dụng phương pháp này. Một “trạng thái thay đổi” của ý thức xảy ra, khi bạn xử lý thông tin bên ngoài hệ thống tiêu biểu ban đầu của mình. Thôi miên là một trạng thái tập trung, tập trung chú ý. Việc đi vào trạng thái thôi miên liên quan đến việc hướng sự chú ý của bạn khỏi sự kiện xảy ra bên ngoài, và hướng nó vào bên trong. Bạn có thể tin tưởng vào vô thức của mình. Sự hiểu biết bằng ý thức không cần thiết đối với sự thay đổi. Chúng ta hãy xem xét từng ý tưởng này riêng biệt. Các hệ thống tiêu biểu và những Trạng thái Thay đổi. Chúng ta xử lý thông tin (nghĩa là chúng ta suy nghĩ) qua những hình ảnh, âm thanh và cảm giác. Trong việc Lập trình Ngôn ngữ Thần kinh, những phương thức nhạy cảm này đều được ám chỉ như là các hệ thống tiêu biểu. V – Hệ thống Thị giác – những thứ bên ngoài mà chúng ta nhìn thấy, và những hình ảnh bên trong mà chúng
ta tạo ra. Điều này bao gồm những hình ảnh được nhớ lại (“Charminar trông giống như cái gì?”), những hình ảnh được xây dựng (“Nếu nó được sơn những sọc đỏ và vàng, thì nó sẽ giống như cái gì?”), cũng như những điều “sống động” mà chúng ta thấy về chính mình. A – Hệ thống Thính giác – những thứ bên ngoài mà chúng ta nghe thấy, và những âm thanh bên trong mà chúng ta tạo ra. Điều này bao gồm những từ ngữ hoặc âm thanh được nhớ lại (“Hãy nghĩ đến Vande Mataram”), những từ ngữ hoặc âm thanh được tưởng tượng (“Hãy tưởng tượng là Vande Mataram chơi sáo”), “Tự-Nói chuyện” v.v... cũng như tất cả những âm thanh “sống động” chung quanh chúng ta. K – Hệ thống Cảm giác Vận động – Những điều chúng ta cảm thấy, Đó có thể là những xúc giác thể lý thực sự, hoặc những xúc giác tưởng tượng. Bạn có thể tưởng tượng mình đang ở trên bãi biển, và cảm thấy cát ở giữa những ngón chân mình của mình không? Hầu hết chúng ta đều đã phát triển sự thành thạo hơn đối với hệ thống này hoặc hệ thống kia, trong số các hệ thống tiêu biểu của mình. Mặc dù mỗi chúng ta đều sử dụng cả ba hệ thống đó. Bởi vì đây là trường hợp này, nên cá nhân nào “suy nghĩ” bằng những hình ảnh, đều không đơn giản trải nghiệm được trạng thái thay đổi của ý thức bằng cách hình dung. Tuy nhiên, nếu cùng cá nhân đó phải trải nghiệm sự trội vượt hơn về những cảm giác hoặc xúc giác, thì điều này sẽ bất thường – một sự thay đổi trạng thái ý thức của họ. Khi chúng ta nói về những trạng thái thay đổi, điều mà chúng ta thực sự ám chỉ là việc xử lý thông tin bằng một cách thức khác hẳn với thông thường.
Sự chú ý tập trung Những hình ảnh đúc khuôn của các nhà thôi miên đang cầm mấy cái đồng hồ hoặc những thiết bị cố định khác để các thân chủ chăm chú nhìn vào, đều là kết quả của sự hiểu biết này về thuật thôi miên. Nếu bạn đã từng trải nghiệm việc trở nên rất bị lôi kéo vào T.V, hoặc một bản nhạc, hoặc một cuốn sách, thì bạn đã trải nghiệm “trạng thái thôi miên đang xảy ra một cách tự nhiên” này. “Đi vào bên trong” Kinh nghiệm về trạng thái thôi miên tiêu biểu là một trạng thái tập trung vào bên trong, qua đó, chúng ta di chuyển khỏi môi trường chung quanh mình, và hướng sự chú ý của chúng ta vào bên trong. Bạn có thể tin tưởng vào vô thức của mình Vô thức “tràn đầy” những nguồn lực, Trong cuộc đời đầy kinh nghiệm của bạn, vô thức đã học hỏi rất nhiều, và có thể áp dụng sự học hỏi đó cho bạn trong thuật thôi miên. Ý thức chỉ có thể xử lý rất nhiều thông tin vào một thời gian nào đó trong quá khứ. Vô thức của bạn không bị giới hạn như thế. Nó có thể suy nghĩ theo cách chụp ảnh giao thoa bằng la-de, và có khả năng tìm được cho bạn nhiều giải pháp
tốt hơn so với ý thức. Việc xử lý này được trù tính để hoàn toàn tận dụng sức mạnh và tài xoay sở của vô thức. Sự hiểu biết bằng ý thức Không cần thiết đối với sự thay đổi Trong nhiều thủ tục tự-thôi miên, những tham dự viên đi vào một trạng thái hôn mê, rồi sau đó, họ tự đưa ra cho mình những đề nghị. Dường như đối với tôi, nếu ý thức của tôi biết phải làm gì về các vấn đề mà vì thế tôi đang sử dụng thuật tự-thôi miên, thì sau đó, sẽ không còn nhu cầu trước hết phải thôi miên nữa. Thật vậy, thông thường đây là trường hợp ý thức của chúng ta vẫn bắt gặp trên đường. Chính ý thức nói: “Tôi không thể...”, hoặc “Tôi không biết cách làm thế nào để...”, hoặc “Tôi không đủ khéo léo...”. Một số người ngạc nhiên khi nghe thấy điều này, nhưng bạn hãy xem xét rằng nếu bạn nghe thấy mình “tự-nói chuyện”, thì đó không phải là vô thức. Thủ tục mô tả dưới đây được trù tính để giữ cho ý thức bận rộn, sao cho nó sẽ không gây trở ngại, trong khi vô thức của bạn đang làm việc. Phương pháp Tự-Thôi miên Bạn hãy tìm một Tư thế Thoải mái – Hãy đạt được một tư thế mà bạn sẽ có khả năng dễ dàng duy trì, trong thời gian bạn sắp thực hiện quá trình này. Có thể đó là tư thế ngồi hoặc nằm, mặc dù người ta khuyên rằng tư thế ngồi ngăn cản bạn khỏi bị buồn ngủ. Hãy để cho mình thư giãn.
Thời gian – Hãy xác định thời gian mà bạn dự tính sử dụng, và đưa ra một lời phát biểu cho chính mình về điều này, như: “Tôi sẽ tự-thôi miên trong vòng 20 phút...” (cho dù bạn muốn thời gian kéo dài bao nhiêu, thì bạn sẽ vui mừng khám phá rằng chiếc “đồng hồ bên trong” của mình vẫn có thể tiếp tục theo dõi thời gian cho bạn một cách tốt đẹp như thế nào). Mục đích – Hãy đưa ra một lời phát biểu cho chính mình về mục đích của mình trong việc tự-thôi miên. Trong quá trình này, chúng ta cho phép vô thức tiếp tục làm việc về vấn đề, thay vì đưa ra những đề nghị xuyên suốt, như vậy, lời phát biểu về mục đích của chúng ta nên phản ánh sự kiện đó. Sau đây là cách bạn có thể nói về điều này: “... vì mục đích để cho phép vô thức của tôi thực hiện những điều chỉnh phù hợp, để giúp đỡ tôi trong việc...”. Hãy điền vào chỗ trống bằng những điều bạn muốn đạt được, như: “phát triển sự tự tin hơn trong những tình huống xã hội”. Những từ ngữ thực sự gần như không quan trọng bằng sự kiện là lời phát biểu của bạn thừa nhận rằng bạn đang chuyển quá trình này sang vô thức. Trạng thái Ra khỏi – Hãy đưa ra một lời phát biểu cho chính mình về trạng thái mà bạn muốn trở thành, khi bạn hoàn tất quá trình. Tiêu biểu trong thuật thôi miên, chúng ta vẫn nghe thấy ý tưởng rằng bạn nên trở lại cảm giác “tỉnh táo, cảnh giác và khỏe khoắn”, nhưng trong cuộc sống thật, có thể đó không phải là điều bạn mong muốn. Chẳng hạn, nếu bạn đang thực hiện việc tự-thôi miên trước khi đi ngủ, thì có thể bạn thích ra khỏi trạng thái thôi miên trong sự “thư giãn và sẵn sàng để ngủ”. Nếu bạn đang thực hiện việc thôi miên trước dự án nào đó, thì có thể bạn muốn ra khỏi trạng
thái này trong sự “được động viên và đầy năng lực”. Hãy nói một cách đơn giản với chính mình: “... và khi tôi kết thúc, tôi sẽ cảm thấy...”. Quá trình – Khi nhìn ra trước mặt bạn, hãy chú ý đến ba thứ (mỗi thứ riêng biệt) mà bạn nhìn thấy. Hãy tiến hành từ từ, ngưng lại một lúc đối với từng thứ. Thật phù hợp hơn khi chúng là những thứ nhỏ, như một dấu vết trên tường, một núm vặn cánh cửa, một góc của khung hình v.v... Một số người thích kêu tên thứ đó khi họ nhìn vào chúng – “Tôi nhìn thấy cái bản lề trên khung cửa”. (Nếu bạn không biết tên của thứ đó, hãy thử nói: “Tôi nhìn thấy thứ này trên đó”. Bây giờ, hãy chuyển sự chú ý của bạn sang nguồn thính giác, và lần lượt chú ý đến ba điều mà bạn nghe thấy, (Bạn sẽ nhận thấy rằng điều này cho phép bạn kết hợp chặt chẽ với những âm thanh nào xảy ra trong môi trường, thay vì bị chúng gây sao lãng). Kế tiếp, hãy chú tâm vào những cảm giác của mình, và chú ý đến ba điều, những cảm xúc mà bạn có thể cảm thấy. Lại nữa, hãy đi chậm rãi từ cảm giác này sang cảm giác kế tiếp. Thật hữu ích khi sử dụng những cảm xúc thông thường, và bên ngoài ý thức của bạn, như trọng lượng chiếc kính bạn đeo, cảm giác từ chiếc đồng hồ trên cổ tay bạn, kết cấu của chiếc áo sơ mi bạn mặc v.v... Hãy tiếp tục quá trình, bằng cách sử dụng hai hệ thống thị giác, hai hệ thống thính giác, rồi đến hai hệ thống cảm giác vận động. Bạn đã hoàn tất phần “bên ngoài” của quá trình. Bây giờ, đến lúc bắt đầu phần “bên trong”.
Nhắm Mắt Hãy đưa một hình ảnh vào tâm trí bạn. Đừng quá cật lực làm việc này. Bạn có thể xây dựng một hình ảnh hoặc đơn giản chấp nhận điều gì xảy đến. Có thể đó là một điểm sáng, một bãi biển đẹp, hoặc có thể là một miếng bánh pizza. Nếu điều gì đó xảy đến với bạn, hãy hoàn toàn sử dụng nó. Nếu không gì xảy đến, hãy cảm thấy tự do để “đặt điều gì đó vào”. Hãy gọi tên nó như bạn đã làm trên đây. Bạn hãy ngưng lại và để cho một âm thanh đến với ý thức của mình, hoặc phát ra một âm thanh và đặt tên cho nó. Mặc dù đây là một phần bên trong về mặt ngữ nghĩa, nhưng nếu bạn nghe được một âm thanh bên ngoài hoặc trong phòng cùng với mình, thì việc bạn sử dụng âm thanh đó là ổn thỏa. Hãy nhớ rằng ý tưởng là kết hợp các sự việc mà bạn trải nghiệm, thay vì bị chúng gây sao lãng. Kế tiếp, hãy trở nên ý thức về một cảm giác và đặt tên cho nó. Thật phù hợp khi bạn làm điều này một cách nội tại – sử dụng trí tưởng tượng của mình (tôi cảm thấy sự ấm áp của mặt trời mùa hè trên cánh tay tôi). Tuy nhiên, giống như đối với hệ thống thính giác, nếu bạn thực sự có một cảm xúc thể lý gây chú ý cho mình, thì hãy sử dụng cảm xúc đó. Hãy lập lại quá trình này với hai hình ảnh, rồi hai âm thanh, rồi đến hai cảm giác. Hãy lập lại chu kỳ này một lần nữa, bằng cách sử dụng ba hình ảnh, ba âm thanh, và ba cảm giác. Hoàn tất Quá trình – Không phải là điều bất thường khi “đặt cách nhau” hoặc đánh mất ý thức trong quá trình. Ban đầu, một số người nghĩ rằng họ buồn ngủ. Nhưng nói chung, bạn sẽ nhận
thấy chính mình tự động trở lại với giới hạn của thời gian được phân phối. Đây là một dấu hiệu rằng bạn không buồn ngủ, và vô thức của bạn đang làm điều mà bạn yêu cầu nó. Ghi chú: Hầu hết mọi người đều không đạt tới mọi phương cách thông qua quá trình. Điều này hoàn toàn đúng. Nếu bạn hoàn tất quá trình trước khi thời gian kết thúc, hãy chỉ tiếp tục bằng 4 hình ảnh, âm thanh, cảm giác, rồi đến 5 v.v... Giống như đối với những mục đích, hãy tin rằng vô thức của bạn đang làm việc cho bạn “trong bối cảnh”, trong khi bạn đang thực hiện quá trình. Việc thường xuyên thực hành sẽ mang lại những kết quả càng ngày càng tốt hơn. Những người nào vẫn còn miễn cưỡng trong việc thử nghiệm thuật tự-thôi miên, thì có thể thử phương pháp Yoga Nidra, vốn là một kiểu thôi miên cổ xưa của Ấn Độ, và hoạt động dựa trên cùng nguyên tắc. Phương pháp này như sau:
Phương pháp Yoga Nidra Mục đích: Giúp đạt được một mục tiêu khó khăn. Thủ tục:
Nằm trên một cái giường hoặc một tấm drap trên sàn nhà, trong tư thế Shavasana, nghĩa là nằm thẳng trên lưng, hai bàn tay đặt theo cạnh sườn, hai cẳng chân hơi dạng ra. Không có gối. Nên thực hiện phương pháp Yoga Nidra trước hoặc sau một Sankalpa hoặc quyết tâm – như loại bỏ tật nói lắp hoặc chứng mất ngủ. Nên nói thành một câu ngắn, không nên thay đổi, cho đến khi đạt được mục tiêu, chẳng hạn: “Tật nói lắp của tôi sẽ hoàn toàn được chữa lành”.
Kế tiếp, bạn hãy hít thở ba lần và lập lại những điều sau đây thành những lời trích dẫn, trong tâm trí, sau khi bạn đã ghi nhớ chúng, trong khi đồng thời trở nên ý thức về phần của cơ thể hoặc cảnh vật mà bạn đề cập đến. Hãy nhanh chóng xuyên suốt cả chuỗi. Nếu bạn thích, hãy thu cách diễn đạt trong băng cassette, và quay lại cho chính mình. “Đỉnh đầu, trán, gáy, chân mày, mũi, má phải, má trái, môi, hàm, cổ, vai phải, vai trái, cánh tay phải, cánh tay trái, lòng bàn tay phải, lòng bàn tay trái, ngón cái tay trái, ngón trỏ, ngón thứ ba, ngón thứ tư, ngón út, lòng bàn tay phải, ngón cái tay phải, ngón trỏ, ngón thứ ba, ngón thứ tư, ngón út. “Ngực, lưng, bụng, mông, hông bên phải, hông bên trái, đầu gối phải, đầu gối trái, cẳng chân phải, cẳng chân
trái, gót phải, gót trái, bàn chân phải, bàn chân trái, ngón cái chân phải, ngón thứ hai, ngón thứ ba, ngón thứ tư, ngón út, bàn chân trái, ngón cái chân trái, ngón thứ hai, ngón thứ ba, ngón thứ tư, ngón út. “Tôi đang nằm trên một bãi cỏ tại Kashmir vào mùa đông. Tuyết phủ khắp chung quanh tôi và trời lạnh buốt. “Bây giờ, tôi chuyển sang Ả Rập, và tôi đang nằm trên bãi cát sa mạc nóng bỏng. “Tôi trở lại với căn phòng của mình. Bên ngoài cửa sổ, tôi nhìn thấy một đàn chim đang bay thật xa vào không gian. Tôi nhìn chúng thật xa tới khi tôi có thể nhìn thấy chúng trong không gian. “Tôi nhìn thấy những đám mây trắng rất xa đang từ từ bay lại gần, chúng càng lớn hơn khi chúng lại gần. Khi chúng bay được phân nửa con đường, thì chúng trở nên xám xịt rồi đen kịt, phát triển về kích thước, và chúng bao trùm cả bầu trời. Bây giờ, tôi nghe thấy tiếng sấm, và nhìn thấy tia chớp đang lóe sáng, và bây giờ, cơn mưa lớn trút xuống khắp chung quanh, rất xối xả. “Bầu trời sáng tỏ và tôi có thể nhìn thấy những bông hoa đầy màu sắc trên các thân cây và những bụi rậm bên ngoài. Tôi thưởng thức toàn bộ cảnh này, và tôi lập lại Sankalpa của mình. Bây giờ, tôi thức giấc”. Sau đó, bạn có thể thức dậy, không quên Sankalpa của mình trước khi làm như vậy. Chẳng bao lâu nữa, quyết tâm của bạn sẽ được đáp ứng.
3 Cất gánh nặng cho tâm trí bạn
Sandra là một nhân viên xã hội thuộc một tổ chức tôn giáo. Khi còn nhỏ, chị đã được nuôi dưỡng trong một bầu khí chính thống khắc nghiệt. Ở trường trung học và cao đẳng, chị đã bắt gặp các hệ thống niềm tin rất tạp nham, càng gây xáo trộn và mất ổn định cho các giá trị đã ăn sâu của chị. Chị chọn một ngành nghề phục vụ xã hội, và tham gia vào một tổ chức tôn giáo. Việc tiếp xúc với hoàn cảnh nghèo khổ tột cùng, khai thác và bất công trong số những người bị áp chế mà chị làm việc với, lại càng làm cho tâm trí chị bất ổn. Chị trở nên chán nản, trải nghiệm một cảm giác về tính cách không đạt hiệu quả đối với bất cứ công việc nào chị làm, và gần như bị suy sụp tinh thần.
Khi chị xin được tư vấn, thì chị được khích lệ bộc lộ những cảm giác về công việc, gia đình, cuộc sống riêng của mình. Chị còn được vạch ra rằng sự suy sụp tinh thần là một nỗ lực trốn thoát khỏi thực tại – vốn không giải quyết được gì cả, bởi vì tình trạng suy sụp của chị sẽ không làm cho thực tại thay đổi. Thay vào đó, chị được cho thấy rằng chị vẫn có thể củng cố những nguồn lực nội tâm của mình, để đối phó với thực tại bằng đầy đủ sức mạnh, và làm nó thay đổi bằng nhiều phương cách. Chị được dành cho hàng loạt bài tập luyện, thật đơn giản và tốn ít thời gian, được mô phỏng dưới đây. Chị phục hồi nhanh chóng, tiếp tục thực hiện các bài tập luyện này và giới thiệu chúng cho những người mà chị làm việc vì ích lợi của họ. Các bài tập này đã giúp chị tự giải thoát khỏi những gánh nặng của những ảnh hưởng có tác động mâu thuẫn trong gia đình, trường trung học, cao đẳng, và các môi trường làm việc của chị. Bây giờ, chị đã loại bỏ mọi gánh nặng tinh thần, và bắt đầu suy nghĩ và hành động một cách tự do. Giống như Sandra, từ khi sinh ra, tất cả chúng ta đều chịu tác động bởi nền văn hóa, tôn giáo, cách giáo dục của gia đình, môi trường, và lớn lên chất đầy gánh nặng của những giới hạn hoàn toàn nằm trong tâm trí chúng ta, và hạn chế sự phát triển và thực hiện tiềm năng của mình. Thật không dễ dàng loại bỏ được tác động này, nhưng một số nhà tâm lý và bậc thầy về tinh thần đã quy định những chiến lược để hoàn toàn đạt được mục đích đó. Một bậc thầy như vậy là Anthony de Mello, linh mục Dòng Tên, tác giả của: Sadhana – A Way to God (Sadhana - Một Con đường đến với Thiên Chúa), Wellsprings (Nguồn Suối),
Song of the Bird (Bài hát của Con chim), One Minute Wisdom (Sự Hiểu biết Cặn kẽ), Prayer of the Frog (Lời Cầu nguyện của con Ếch), Contact with God (Tương quan với Thiên Chúa). Ngài cũng là nhà diễn thuyết được nhiều người yêu cầu. Ngài qua đời trong một chuyến đi diễn thuyết tại Mỹ. Sau đây là những cách thích nghi với một số bài tập khử tác động, mà linh mục de Mello đã trình bày ở một trong các chương trình của ngài. Chúng đều dựa trên các phương pháp Tinh thần của Phương Đông (Phật giáo và Aán giáo), và Phương Tây, mà vị linh mục này đã làm thích nghi với những mục đích và thời gian của mình.
Niềm an ủi của Kinh Thánh Mục đích: Sự bình an của tâm trí. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Mỗi kỳ từ 10 phút đến thời gian không giới hạn. Thủ tục: Hãy chọn một đoạn Kinh Thánh nào thu hút mình: “Bất cứ ai khát, hãy đến với Ta và uống”, “Hãy làm bổn phận của mình mà không nghĩ đến những kết quả của nó” v.v... Hãy lập lại câu này như một công thức tụng niệm, mà không suy nghĩ, cho đến khi tâm hồn bạn thỏa mãn. Sau đó,
hãy tự để cho mình phản ứng một cách tự nhiên. Có lẽ một ngày nào đó, bạn sẽ mệt mỏi với việc phản ứng đối với những từ này, hãy vượt khỏi những từ này để đến với sự thinh lặng. Hãy đọc, đọc thuộc lòng, phản ứng – đó là thủ tục. Bài tập luyện hoàn toàn vượt khỏi tâm trí sẽ có ý nghĩa với bạn. Để thay đổi, bạn hãy chọn một đoạn nào mà bạn thích, và tưởng tượng là tác giả đang đứng trước mặt bạn và phát biểu câu này. Hãy để cho những từ đó vang dội bên trong bạn, cho đến khi bạn không còn có thể tự ngăn cản mình được nữa. Sau đó, hãy tự để cho mình phản ứng một cách tự nhiên. Có lẽ sự im lặng vượt khỏi bạn trước khi bạn có thì giờ để phản ứng.
Có cảm giác về cơ thể
Mục đích: Sự bình an của tâm trí. Tư thế:
Ngồi khi bắt đầu, sau đó, nằm xuống, đứng lên hoặc đi bộ.
Thời gian: Mỗi kỳ 10 phút.
Thủ tục: Nhắm mắt lại, tiếp xúc với cơ thể mình. Hãy trở nên ý thức về cảm giác của quần áo trên hai vai, sự cọ xát của chiếc áo sơ mi trên lưng, cảm giác của hai bàn tay bạn. Cảm giác của bắp đùi trên ghế. Cảm giác của hai bàn chân khi chúng tiếp xúc với sàn nhà. Hãy đi tới đi lui. Vai, lưng, bàn tay, bắp đùi. Vai, lưng, bàn tay, bắp đùi. Đừng suy xét về những cảm xúc, chỉ nhận thức về chúng mà thôi. Nếu bạn cảm thấy căng thẳng, hãy tiếp xúc với sự căng thẳng của mình, và bạn sẽ cảm thấy thư giãn.
Ích lợi Đây là một bài tập luyện về nhận thức, vốn mang lại sự bình an. Nó đưa bạn đến với tâm hồn mình. Bạn trở về với bản thân, bằng cách tiếp xúc với cơ thể mình, nhưng phải mất thời gian. Hãy làm bài tập luyện này trong ngày, trên xe buýt, tàu lửa, trong khi bạn đang chờ đợi một cuộc hẹn. Hãy bắt đầu từ trên đỉnh đầu, đi xuống tới những ngón chân của bạn. Một số hiệu quả: bạn đang ở trong hiện tại. Bạn có phải là một trong những người không thể nhớ lại, không thể tập trung được không? Bài tập luyện này sẽ làm cho những điều này khả thi, bằng cách đưa bạn đến với hiện tại. Nó sẽ giúp bạn đi chậm lại. Sẽ đến ngày mà bạn ngừng hối thúc mình.
Chậm lại Mục đích: Cố ý chậm lại, và ý thức hơn về hiện tại. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Thời gian của bất cứ sinh hoạt nào mà có thể bạn quan tâm đến. Thủ tục: Hãy bỏ ra một phút lâu hơn bình thường, để làm bất cứ việc gì mà bạn tình cờ tham gia. Hãy thử làm như vậy trong vòng một tuần. Ích lợi Bạn đến với hiện tại. Bạn trở nên kết hợp hơn, làm mỗi lần một việc.
Chấp nhận Mục đích: Thay đổi về những thái độ. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Một giờ (có thể thực hiện thành từng kỳ 10 phút).
Thủ tục: Hãy nhớ lại lời cầu nguyện: “Xin ban cho con sức mạnh để chấp nhận những điều không thể thay đổi, để thay đổi những điều có thể thay đổi, và sự khôn ngoan để nhận biết sự khác biệt”. Hãy làm một bản danh sách về những điều mà bạn không thể thay đổi: Hoàn cảnh chào đời, màu da, giới tính của bạn v.v... Hãy chấp nhận chúng một cách toàn tâm toàn ý, mà không hề e dè. Điều này sẽ trang bị cho bạn tốt hơn, để thay đổi những điều có thể thay đổi được.
Viễn cảnh Mục đích: Đạt được một viễn cảnh sáng sủa hơn cho cuộc đời bạn. Tư thế:
Bất cứ thái độ nào, tốt hơn nên ngồi.
Thời gian: Một giờ; có thể phân chia thành những kỳ 10 phút. Thủ tục: Hãy nghĩ đến những chuyện trong thời thơ ấu của mình mà bạn không thể bỏ qua, và những chuyện mà bạn căm ghét. Điều gì đã xảy ra với chúng? Hãy nghĩ đến một sự kiện trong quá khứ mới đây, tốt nhất là sự kiện nào không thú vị. Bạn phản ứng như thế nào với sự kiện đó? Bạn đang phản ứng với nó, hoặc người khác nào đó từ trong quá khứ phản ứng? Khi bạn phản ứng, những niềm tin của bạn là gì? Sau thời gian nào đó, bạn sẽ nhận thấy sự thay đổi. Hãy làm một bản danh sách những điều mà bạn sở hữu. Rồi sau đó, hãy nói: “Điều này cũng sẽ qua đi”. Hãy làm một bản danh sách những điều mà bạn ghét. Rồi sau đó, hãy nói: “Điều này cũng sẽ qua đi”. Ích lợi Bạn sẽ không còn bị những sự kiện nhỏ nhặt ám ảnh, bởi vì bạn đạt được một viễn cảnh tốt hơn trong cuộc đời mình.
Viễn cảnh Mục đích: Đạt được ý thức về thái độ vô thức của bạn. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Mỗi lần 10 phút, đồng thời cùng với bất cứ sinh hoạt nào khác. Thủ tục: Hãy tiếp thu từng hành động của mình bằng lời nói khi bạn thực hiện nó: “Bây giờ, tôi đang sẵn sàng. Bây giờ, tôi đang gấp sách lại. Bây giờ, tôi đang đứng. Bây giờ, tôi đang mặc quần áo. Bây giờ, tôi đang đi bộ”. Hãy quan sát phản ứng của bạn đối với từng sự kiện trong ngày, khi nó xảy ra. Hãy định kỳ xem xét cuộc sống riêng của mình. Bạn sử dụng bao nhiêu phút trong quá khứ? Bao nhiêu phút trong tương lai? Khi bạn hít vào, hãy ý thức rằng mình đang hít vào. Khi bạn thở ra, hãy ý thức rằng mình đang thở ra. Hãy tự quan sát mình một cách không phê phán, không đổ lỗi, cũng không tự khen ngợi vì những hành động của mình. Nếu bạn cố ý cảm thấy vui mừng, hoặc tự hào, hoặc giận dữ, thì bạn cũng hãy quan sát những phản ứng của mình. Ích lợi Một cảm giác thanh thản thực sự đến với những giác quan của bạn.
Những Xiềng xích về mặt Tâm lý Mục đích: Loại bỏ những ảnh hưởng từ quá khứ. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Mỗi lần 10 phút. Thủ tục: Nếu bạn đã có những sự kiện tồi tệ hoặc đau thương trong quá khứ, và vẫn còn bị chúng gây ảnh hưởng, thì bạn hãy nói với Chúa Quan phòng: “Nếu Chúa cho phép chuyện đó xảy ra, thì con tin rằng nó tốt đẹp cho con. Bây giờ, con sẽ quên nó đi và sống cuộc đời của con”. Ban đầu, có thể bạn cảm thấy bực tức rằng mình làm điều đó. Hãy trục xuất sự tức giận ra khỏi lòng mình, trước khi bạn cám ơn Chúa Quan phòng. Hãy làm tương tự như vậy đối với những sự kiện thú vị. Sự luyến tiếc có thể phá hủy hiện tại nhiều giống như nỗi đau từ quá khứ.
Ích lợi Bạn sẽ được trang bị tốt hơn, để vui hưởng hiện tại và lên kế hoạch cho tương lai của mình.
Niềm Hạnh phúc Vô Điều kiện Mục đích: Tự giải thoát khỏi những cảm xúc không phù hợp. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Có thể thực hiện thành những kỳ 10 phút.
Thủ tục: Hầu hết mọi người đều không hạnh phúc, bởi vì họ áp đặt những điều kiện lên hạnh phúc của mình. “Tôi sẽ không hạnh phúc, cho đến khi tôi đạt được điều này hoặc điều kia”. Hãy tự hỏi điều gì sẽ xảy ra, nếu bạn bỏ mặc những cảm xúc tiêu cực – ghen tị, sợ hãi, tức giận, nỗi đau xé ruột, oán giận? Hãy ngừng lại với câu hỏi này, và bạn có thể có được một khám phá lớn.
Ích lợi Bạn có thể khám phá rằng những cảm xúc tiêu cực của mình không mang lại mục đích gì hữu ích, và có thể loại bỏ chúng.
Phúc lành
Mục đích:
Đếm những phúc lành của mình, và không cảm thấy rằng mình đã bị đối xử bất công.
Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian:
Từ 10 đến 20 phút.
Thủ tục: Hãy thử nói rằng mình thật may mắn, thật biết ơn vì những phúc lành mà mình đã được vui hưởng. Hãy tự đặt mình vào vị trí của một người bị tê liệt và nói: “Tôi có thể làm được tất cả những điều đáng quý nhất trên thế giới. Tôi có được những điều đáng quý nhất trên thế giới!”. Hãy nghĩ về quá khứ, về tất cả những sự kiện thú vị của quá khứ. Hãy biết ơn vì từng sự kiện. Hãy nói: “Xin cám ơn. Tôi thật là may mắn”. Hãy nghĩ rằng những điều không thú vị đã giúp mình như thế nào trong sự phát triển, và hãy biết ơn. Hãy nghĩ về tất cả những sự kiện của quá khứ, thú vị và không thú vị, và nói: “Điều đó đã tốt đẹp. Điều đó đã tốt đẹp”. Hãy nghĩ đến tất cả những sự kiện của hiện tại, thú vị và không thú vị, và nói: “Điều đó đang tốt đẹp. Điều đó đang tốt đẹp”. Hãy nghĩ tới tất cả những sự kiện của tương lai, thú vị và không thú vị, và nói: “Điều đó sẽ tốt đẹp. Điều đó sẽ tốt đẹp”.
Hãy cá nhân hóa những thứ bạn sở hữu trong quá khứ – vẻ bề ngoài xinh đẹp, sự giàu sang, tuổi trẻ, tài dí dỏm. Hãy nói với chúng: “Thật tốt khi có được các bạn. Nhưng bây giờ, tôi phải ra đi”. Hãy làm tương tự như vậy đối với những sự kiện, con người, sự gắn bó trong quá khứ. Hãy nói lời tạm biệt với chúng. Hãy nói với tương lai như thể nó là một con người: “Tốt. Tôi hiểu tại sao bạn đang ở đây. Nhưng tôi vẫn tin tưởng vào Chúa Quan phòng, và mọi sự đều sẽ tốt đẹp. Lạy Chúa Quan phòng, con tin tưởng nơi Người. Con sẽ làm những điều con có thể, để làm cho những giấc mơ của con trở thành hiện thực, nhưng con sẽ dành lại kết quả cho Chúa”. Hãy nói với một người mà bạn cảm thấy mình rất sở hữu: “Thật quý hóa biết bao khi bạn ở với tôi. Nhưng bạn không phải là cuộc sống của tôi. Tôi có một vận mệnh để hoàn thành, một cuộc đời để sống, cách xa khỏi bạn”. Hãy làm tương tự như vậy đối với những thứ bạn sở hữu, nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, chính cuộc sống.
Ích lợi Thật may mắn, bạn sẽ đạt được sự tự do về tinh thần.
Giải thoát khỏi sự Chuyên chế đối với Bản thân Mục đích: Giải thoát khỏi những xiềng xích về mặt tâm lý. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: 10 phút.
Thủ tục: Hãy nghĩ đến những điều đã hiện hữu tại chỗ bạn đang đứng 100 năm trước... 5000 năm trước... Hãy nghĩ đến điều gì sẽ hiện hữu ở đây 5000 năm sau kể từ bây giờ... Điều đó có ý nghĩa gì, điều gì xảy ra với bạn bây giờ?
Ích lợi Mang lại cho bạn một cảm giác về viễn cảnh, và đẩy lùi mối bận tâm về bản thân.
Bài tập Bí ẩn Mục đích: Bộc lộ cho chính bạn bản chất thực sự của mình. Tư thế:
Bất cứ thái độ nào.
Thời gian: 10 phút mỗi lần.
Thủ tục: Hãy tiếp xúc với những cảm xúc của cơ thể mình. Sau một lúc, hãy ý thức về người đang quan sát những cảm xúc này, và nói: “Tôi không phải là những cảm xúc này”. Hãy quan sát những tư tưởng và cảm giác của mình, và nói với người suy nghĩ: “Tôi không phải là những tư tưởng của mình”. Hãy nhớ lại những cảm giác của bạn khi chúng xuất hiện. Hãy quan sát quan sát viên và nói với người đó: “Tôi không phải là những cảm giác này”.
Ích lợi Bạn sẽ tự khám phá được những ích lợi.
4 Tinh thần làm chủ từ Phương Đông và Phương Tây
Chủ nghĩa duy vật đã vượt qua cả thế giới hiện đại. Đồng thời, như một phản ứng đối với tình trạng này, nhiều cá nhân và nhóm đã tìm kiếm sự khuây khỏa của tinh thần vốn mang lại sự phục hồi. Các bậc thầy về tinh thần ở cả phương Đông lẫn phương Tây đều thích nghi những cách thực hành cổ xưa vào thời hiện đại và vào con người bình thường. Ở đây, tôi chọn một số cách thực hành đã đạt được sự hấp dẫn rộng khắp, xuyên suốt toàn bộ cách phân bố tôn giáo và vượt ra ngoài, bất chấp nguồn gốc của chúng. Chúng được trình bày ở đây không theo thứ tự đặc biệt nào. Cuối cùng, tôi đề nghị một sự tổng hợp có thể có đối với hầu hết trong số đó, mà tôi đặt tên là Đường lối của Tinh thần.
Suy niệm về nhịp đập trái tim của Giáo phái Sufi Năm 1910, Hazzrat Inayat Khan, một nhạc sĩ xuất sắc và Bậc thầy của Giáo phái Sufi ở Ấn Độ, đã được vị thầy của ông chỉ thị đi sang phương Tây và phổ biến các giáo huấn của giáo phái Sufi ở đó. Giáo phái Sufi là một trường phái tinh thần thường liên kết với Hồi giáo, nhưng Jelal-udDin Rumi ở Thổ Nhĩ Kỳ, một trong những bậc thầy nổi tiếng của giáo phái Sufi trong mọi thời đại, người sáng lập Tu hội Mevlana thuộc Whirling Dervishes, và còn là một thi sĩ, ông đã viết: Tôi không theo Công giáo, không theo Do Thái giáo, không theo đạo Hindu, không theo Hồi giáo. Tôi không phải người phương Đông, không phải người phương Tây, không thuộc về Đất liền, cũng không thuộc về Biển cả... Tôi loại bỏ tính nhị nguyên, tôi nhận thấy rằng cả hai thế giới là một. Vilayat, con trai của Hazzrat Inayat Khan, cũng dạy triết lý của giáo phái Sufi ở phương Tây. Các môn đệ của họ đã triển khai một cách suy niệm theo nhịp đập trái tim, trong đó, bạn trở nên ý thức về nhịp đập và sự hít thở của trái tim. Sau đây là các bước: 1. Hãy chọn một tư thế ngồi thoải mái, nhưng vẫn giữ lưng thật thẳng. 2. Nhắm mắt lại. Hướng nội, ý thức về những tư tưởng và cảm giác của bạn, sao cho bạn trở nên cách ly khỏi những cái nhìn và âm thanh bên ngoài. Sau đó, hãy ý
thức về hơi thở của mình, cho đến khi bạn cảm thấy tập trung. 3. Bạn có ý thức về nhịp đập của trái tim ở bất cứ nơi đâu trong cơ thể mình không? Hầu hết mọi người đều không ý thức. Nếu đây cũng là trường hợp của bạn, thì bạn hãy giữ lại hơi thở của mình sau khi bạn hít vào. (Điều quan trọng: đừng bao giờ giữ hơi thở sau khi bạn thở ra). Sau vài giây, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy nhịp đập của trái tim mình, thông thường trong lồng ngực. Hãy tiếp tục hít thở. Ngay khi bạn bắt đầu lại, bạn bắt đầu mất ý thức về nhịp đập của trái tim mình. Ý thức này sẽ trở lại khi bạn nghỉ. Nếu không, bạn hãy giữ lại hơi thở mỗi lần bạn hít vào. Khi bạn trở nên ý thức về nhịp đập của trái tim, hãy nới lỏng và thở ra. Chẳng bao lâu nữa, bạn có thể nhận thấy nhịp đập của trái tim xuyên suốt chu kỳ hít thở của mình. 4. Những tư tưởng và cảm xúc sẽ nổi lên. Khi chúng như vậy, thì bạn hãy trở lại với hơi thở và ý thức của mình về nhịp đập của trái tim, bằng cách bỏ qua những tư tưởng và cảm giác. “Trong khi suy niệm, người ta nên quan sát nhịp điệu của hơi thở, cho đến khi họ có khả năng đạt được tâm trí yên tĩnh. Nếu tâm trí không thể yên tĩnh được, thì người ta chỉ có thể liên tục xem xét nhịp điệu của hơi thở. Sau một lúc, hơi thở có thể có khuynh hướng trở nên càng lúc càng trong trẻo hơn. Sau đó, người ta sẽ nhận thấy thật khó mà quan sát, và quả thật không có nhu cầu quan sát hơi thở nữa, khi họ đi vào sự thinh lặng đích thực” (Hazzrat Inayat Khan). 5/ Sau từ 15 tới 20 phút, hãy ý thức lại về nhịp đập của trái tim mình trong
một lúc. Bạn sẽ cảm thấy thư giãn và kết hợp. Sau đó, bạn có thể hướng tới thế giới bên ngoài, hãy ngồi dậy và bắt tay vào công việc của mình. Bạn có thể trở lại với nhịp đập của trái tim bất cứ khi nào có điều gì đó khiến bạn bối rối.
Con đường của một Khách hành hương Linh mục Anthony de Mello, tác giả và người hướng dẫn tinh thần, thuật lại sự kiện sau đây trong cuốn sách của ngài Contact with God (Mối Quan hệ với Thiên Chúa): “Một buổi tối, lúc tôi đang tổ chức một cuộc thảo luận với một nhóm các Nữ tu, và nói với các sơ ấy rằng có quá ít sách thực sự dạy cho chúng ta cách cầu nguyện... Tối hôm đó, một trong các sơ ấy đã nói với tôi: ‘Thưa cha, con khám phá được một cuốn sách xử lý chính xác vấn đề mà cha đã đề cập... Cuốn sách này dạy cho chúng ta làm thế nào để có một cách thức cầu nguyện thực tiễn. Cha có quan tâm đến việc đọc nó không ạ?’. Sau bữa tối, tôi bắt đầu đọc cuốn sách này, và nhận thấy nó rất hấp dẫn, đến nỗi tôi đã thức tới khuya để cố gắng đọc hết nó. Cuốn sách này tên là The Way of a Pilgrim (Con đường của một Khách Hành hương), do một khách hành hương người Nga ẩn danh viết. Bản thảo của nó được tìm thấy trong căn phòng nhỏ của một tu sĩ trên núi Athos sau khi ngài qua đời hồi đầu thế kỷ này. Chẳng bao lâu sau, cuốn sách đó đã trở nên kinh điển về mặt tinh thần, và được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ hiện đại.
Chúng tôi đã có ít nhất bốn bản dịch: Hindi, Tamil, Malayalam và Marathi”. Nói ngắn gọn, cuốn sách này nói về một khách hành hương người Nga muốn biết cách làm thế nào để cầu nguyện liên tục không ngừng, và tìm kiếm người nào đó sẽ dạy cho mình cách thực hiện điều đó như thế nào; cho đến khi ông phát hiện một vị tu sĩ dạy cho ông lập đi lập lại lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con” theo nhịp điệu cùng với hơi thở, ban đầu 500 lần một ngày, rồi đến 1000 lần v.v... Linh mục De Mello bình luận: “Tôi còn nhớ có một nhóm các nữ tu đã đọc cuốn sách này trong phòng ăn vào các bữa ăn trong kỳ tĩnh tâm của họ. Trong hai ngày, một số sơ khá căng thẳng và bối rối. Trong cuộc phỏng vấn riêng với các sơ ấy, tôi đã nói: ‘Điều gì đang làm cho các sơ căng thẳng thế?’. Câu trả lời là: ‘Cuốn sách. Ông ấy đếm lời cầu nguyện đó của ông, và ông ấy đếm được tới 4000 ngàn lần. Con không thể chịu đựng được việc đếm!’. Điều này làm cho tôi buồn cười. Nếu 4000 lần làm cho các sơ căng thẳng, thì hãy chỉ chờ đợi cho đến khi ông ấy đọc lời nguyện này 20.000 lần. Điều đó sẽ làm cho các sơ leo lên các bức tường!’. Không phải thế. Sau kỳ tĩnh tâm, các sơ tốt lành đó đã mua từng bản sao của cuốn sách này... Họ đã yêu quý nó và muốn chia sẻ với các bạn bè của họ”. Chính cha de Mello đã đề cập đến việc thực hành: “Trong vòng chưa đến một tháng, tôi nhận thấy có sự thay đổi rõ rệt trong việc cầu nguyện của mình. Toàn bộ điều mà tôi vẫn làm là lập đi lập lại câu này... thông thường suốt cả ngày mỗi khi tôi nhớ đến; không chỉ trong lúc cầu nguyện, mà còn cả những lúc tôi tình cờ được rảnh rỗi: khi tôi đợi xe buýt hoặc tàu lửa, hoặc
đang đi bộ đến nơi này nơi khác. Thật khó diễn tả sự thay đổi mà tôi trải nghiệm được. Nó không thuộc về cảm xúc. Tôi bắt đầu cảm thấy phần nào an bình hơn, hồi tâm hơn, kết hợp hơn – nếu điều này mang lại bất cứ ý nghĩa nào, thì đó là cảm thấy một chiều sâu nào đó bên trong mình. Tôi cũng nhận thấy rằng lời cầu nguyện gần như đã có thói quen tự động phát ra khỏi đôi môi mình, bất cứ khi nào tôi không bận rộn với một số hoạt động tinh thần nào đó, thế rồi tôi sẽ bắt đầu lập lại lời cầu nguyện này, có khi một cách hoàn toàn máy móc, có khi một cách đầy ý nghĩa. Tôi đề cập đến vấn đề này với một nữ tu mà tôi quen ... Chị ấy chưa bao giờ đọc cuốn sách này, nhưng chị lại kể với tôi một kinh nghiệm thú vị mà chị có được. Khi chị còn là một tập sinh, Giáo tập của chị yêu cầu các tập sinh chọn một cảm hứng phù hợp với nhịp điệu bước đi của họ. Với đặc điểm tâm hồn đơn giản của một tập sinh, chị đã áp dụng cách thực hành này và tiếp tục nhẩm lại công thức này theo nhịp điệu bước đi của mình. Tuy nhiên, những tác động vẫn kéo dài trong suốt cuộc đời chị. Chị nói với tôi: “Con không hiểu tại sao, nhưng mỗi khi đi bộ, thì con đều ý thức rằng lời cầu nguyện vẫn đang tiếp tục bên trong tâm hồn con”. Một ấn bản mới đây của cuốn Con đường của một Khách Hành hương có những chỉ dẫn sau đây, về cách làm thế nào để thực hành Lời Cầu nguyện của Đức Giêsu: 1. Hãy ngồi hoặc đứng ở một nơi có ánh sáng lờ mờ và yên tĩnh. 2. Tự hồi tâm.
3. Với sự giúp đỡ của trí tưởng tượng, hãy tìm kiếm nơi chốn cho tâm hồn và ở lại đó với sự chú ý. 4. Hướng dẫn tâm trí, từ trên đầu đến trái tim, và nói: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con”. Hãy đọc lời nguyện này một cách chậm rãi và kính cẩn, thầm trên môi hoặc nhẩm, bất cứ cách gì thuận tiện hơn. 5. Hết sức cố gắng giữ sự chú ý của tâm trí bạn, và đừng để cho bất cứ tư tưởng nào xâm nhập. 6. Hãy kiên nhẫn và an bình. 7. Điều hòa về đồ ăn, thức uống và giấc ngủ. 8. Học hỏi để yêu mến sự thinh lặng. 9. Đọc Kinh Thánh và những bài viết của các Giáo phụ về việc cầu nguyện. 10. Hết sức cố gắng tránh những việc gây sao lãng. Không cần nói, bất cứ cách diễn đạt thánh thiêng nào khác như: Aum, Ram và Hare Krishna của đạo Hindu, công thức tụng niệm Alah Hu và Tibetan Om Mane Padme Hum của giáo phái Sufi cũng đều có hiệu quả đối với những ai đi theo những niềm tin tôn giáo tương ứng. Cha de Mello suy luận rằng có thể Lời Cầu nguyện của Đức Giêsu có nguồn gốc ở Ấn Độ. Nếu đúng như vậy, thì đây không phải là lần đầu tiên hoặc cuối cùng tinh thần Ấn Độ và phương Đông có tác động đối với phương Tây, và thậm chí còn thâm nhập cả vào những pháo đài tôn giáo của họ.
Yoga Thích nghi Trong thế kỷ này, tu sĩ Dom J. M. Dechanet, người Pháp, thuộc Dòng Biển Đức, đã thực hiện một trong những nỗ lực sớm nhất, để thích nghi tinh thần phương Đông với những truyền thống phương Tây. Ngài thích nghi asana và pranayama của yoga vào những cách thực hành hiện hành riêng của mình. Vốn là một người bệnh tật cho đến năm 40 tuổi, tu sĩ Dechanet đã trải nghiệm những hình thức rèn luyện khác nhau, khi ngài nhận thấy sức khỏe của mình cải thiện. Trong số tất cả những cách rèn luyện này, ngài nhận thấy yoga hữu ích nhất, trong việc giúp ngài phục hồi, cũng như trấn tĩnh tâm trí. Sau khi sử dụng yoga để trấn tĩnh cơ thể và tâm trí, tu sĩ Dechanet còn kết hợp các bài tập luyện hít thở pranayama với việc đọc Lời Cầu nguyện của Đức Giêsu. Sau tu sĩ Dechanet, nhiều học giả đã thích nghi yoga vào các truyền thống phương Tây. Một trong các học giả như vậy là John Main, cũng là một tu sĩ Dòng Biển Đức. Học giả này còn thích nghi mantra yoga vào Kitô giáo. Ngài đang sống tại Malaysia, nơi ngài gặp Swami Satyananda, người dạy ngài phương pháp này. Maharishi Mahesh đã phổ biến yoga công thức tụng niệm trên khắp thế giới, dưới cái tên là cách Suy niệm Tiên nghiệm.
Suy niệm Kitô giáo Tu sĩ John Main nhận thấy yoya công thức tụng niệm thật hữu ích trong việc thực hành tôn giáo của mình, và cuối cùng, ngài đã quyết định gia nhập một đan viện. Tại đây, ngài phát hiện một truyền thống Kitô giáo đã bị bỏ quên từ lâu, với những cách thực hành tương tự. Ngài quyết định phổ biến truyền thống này dưới cái tên là cách Suy niệm Kitô giáo. Trong khi Mahesh Yogi chỉ định những công thức tụng niệm cá nhân cho các môn đệ của ông có trả thù lao, mà họ bị bắt buộc không được tiết lộ với bất cứ ai, thì Tu sĩ John Main lại chọn cụm từ bằng tiếng Aramia “Maranatha” (Lạy Chúa, xin hãy đến), để sử dụng như là công thức tụng niệm của mình. Những chỉ dẫn của ngài về cách làm thế nào để suy niệm như sau: “Hãy ngồi xuống. Ngồi thật yên tĩnh và thẳng thắn. Nhẹ nhàng nhắm mắt lại. Ngồi thư giãn nhưng sẵn sàng. Một cách yên lặng, nội tâm, hãy bắt đầu nói một từ riêng rẽ. Chúng tôi giới thiệu cụm từ-lời nguyện ‘Maranatha’. Hãy đọc thuộc lòng lời nguyện này, bởi vì bốn âm có cùng độ dài. Hãy lắng nghe khi bạn đọc lời nguyện này, một cách thật nhẹ nhàng nhưng liên tục. Đừng suy nghĩ hoặc tưởng tượng bất cứ điều gì – về mặt thiêng liêng hoặc về mặt khác. Nếu những tư tưởng hoặc hình ảnh vẫn đến, thì đó là những sự lo ra trong lúc suy niệm, vì thế, hãy tiếp tục trở lại bằng cách đơn giản nói từ này. Hãy suy niệm mỗi sáng và tối trong khoảng từ 20 đến 30 phút”. Quy định này dường như cực kỳ đơn giản, nhưng Tu sĩ John Main lại viết tới ba cuốn sách bàn bạc nhiều về những khía cạnh tâm lý và thần bí của nó. Tu sĩ Dom Bede Griffiths, người Anh, thuộc Dòng Biển Đức định cư tại Ấn
Độ, và gây dựng một ashram ở miền Nam Ấn Độ, đã nói: “Theo kinh nghiệm của tôi, thì Tu sĩ John Main là người hướng dẫn tinh thần tốt nhất trong Giáo hội ngày nay”, bởi vì ngài tạo khả năng cho mọi người phục hồi được chiều kích đã bị mất đi trong cuộc sống – mối quan hệ gay go với thực tại và với con người nội tâm của họ, trong tình trạng ồn ào náo nhiệt của thế giới hiện đại.
Suy niệm Thiền Linh mục Hugo Enomiya-Lassalle, Dòng Tên, đã thực hiện việc suy niệm tương tự, với những cách thực hành Thiền Phật giáo. Vốn là một nhà truyền giáo người Đức được cử sang Nhật năm 1929, ban đầu, ngài giảng dạy tại Trường Đại học Tokyo, một trụ sở của Dòng Tên. Năm 1940, ngài được cử sang Hiroshima, nơi ngài làm linh mục chính xứ, thực hiện việc truyền giáo và dạy tiếng Đức. Năm 1943, ngài tham dự một khóa học 7 ngày về Thiền Phật giáo, một kiểu tĩnh tâm rồi sau đó thực hành zazan hoặc ngồi trầm tư dưới sự hướng dẫn của Harada Daium Sogaku Roshi, một trong những bậc thầy nổi tiếng nhất về Thiền của thời đại ngài. Linh mục Lasalle là một trong những người sống sót của vụ dội bom nguyên tử xuống Hisoshima, và chính ngài tiếp tục trở thành một bậc thầy về Thiền. Ngài viết cuốn sách Zen: A Way to Enlightenment (Thiền: Một Con đường đưa đến sự Khai sáng), đã ngay lập tức trở thành một cuốn sách bán chạy nhất và được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Cho đến khi ngài qua đời vài năm trước đây, linh mục Lassalle đã
hướng dẫn các khóa học về Thiền, chủ yếu tại Đức, nơi một chỗ ngồi phải được đặt trước hơn một năm, vì các khóa học này rất phổ biến. Trong cuốn sách của mình, linh mục Lassalle viết về ba phương pháp thực hành Thiền để đạt được sự khai sáng – một trạng thái không mang tính cách nhị nguyên. Phương pháp đầu tiên bao gồm sự tập trung vào hơi thở của mình. Cách thực hành phổ biến là bắt đầu bằng cách đếm hơi thở, thường từ 1 đến 10, sau đó, lại đứng lên. Những hơi hít vào được đếm theo số lẻ, và những hơi thở ra được đếm theo số chẵn. Một phương pháp khác không bao gồm việc đếm hơi thở, nhưng có thể nói là theo dõi chúng bằng đôi mắt của tâm trí. Sự tập trung vào hơi thở bằng những cách thức đơn giản này, bất kể phương pháp tập trung, trước hết giúp cho tất cả mọi người giới hạn được sự hình thành những tư tưởng, rồi sau đó, đắm chìm vào những tầng lớp sâu xa hơn của ý thức. Cách thức thứ hai là giải quyết những “koan” (loại bỏ lý lẽ) (như: “âm thanh của bàn tay đang vỗ là gì?”). Cách thức này có tác dụng đình chỉ việc lý luận, và đạt được cùng mục đích đã đạt với cách đếm hơi thở. Cách thức thứ ba để khai sáng là “Shikantaza” hoặc “chỉ ngồi”, bởi vì người ta chỉ ngồi và hít thở mà thôi (theo cách thức đã được chỉ định), nhưng không có bất cứ sự giúp đỡ nào, không tập trung vào hơi thở của mình, cũng không thực hành koan. Khi những tư tưởng xảy đến, người ta không theo dõi, cũng không cố gắng xua đuổi chúng. Linh mục Lassalle tuyên bố rằng: “Những ai thực hành cách suy niệm Thiền một thời gian dài, đều thường tìm được một cách hiểu rõ giá trị của Kinh Thánh, thông qua sự hiểu biết không còn mang tính cách lý trí nữa. Sự hiểu biết
này không mang hình thức của cách chú giải mới, vẫn xảy đến với họ như là kết quả của việc đọc hoặc suy xét một bản văn Kinh Thánh... Nói đúng hơn, đây là vấn đề đọc những từ Kinh Thánh với sự chú ý, trong khi đồng thời xem xét thông qua những từ này, mặc dù kinh nghiệm đều vẫn đi kèm với một niềm vui sâu xa và đích thực... Đây không phải là một kiến thức mới, nhưng nói đúng hơn, đó là làm cho sâu sắc thêm kiến thức về đạo giáo mà người ta vốn đã sở hữu ở mức độ nào đó. Có thể nói rằng đức tin đến với tầm nhìn”. Một người phương Tây khác đã từng thực hành Thiền ở Nhật, và cuối cùng trở thành một Bậc thầy về Thiền, còn đưa ra lời khuyên này cho các độc giả: “Tôi đã học hỏi cách làm thế nào để đem lại kinh nghiệm tâm lý, mà tôi tin rằng đó là điều chủ yếu của sự Khai sáng. Nếu độc giả thích có một cuộc thử nghiệm mà tôi nhận thấy là hữu ích đối với mục đích này, thì đó là: Hãy đứng trong một căn phòng, đối diện với một cửa sổ có gắn kính dày lớn. Giả vờ cửa sổ này là một tấm gương. Hãy tưởng tượng đến tất cả mọi thứ mà bạn nhìn thấy thông qua nó – bãi cỏ, cây cối, những con chim, xe cộ qua lại trên đường... giả vờ tất cả những thứ bên ngoài đều không thực sự ở bên ngoài, nhưng đều là những hình ảnh trong kính của cửa sổ, tấm gương. Giả vờ thêm rằng những thứ này không phản chiếu những thứ bên ngoài tấm gương, nhưng đều phát xuất một cách bí ẩn từ bên trong chính tấm gương. Kế tiếp, hãy tiến đến gần hơn, cho đến khi bạn có thể đụng chạm vào bề mặt của tấm kính, và cảm thấy sự bất động hoàn toàn của nó. Bất chấp sự đu đưa của những thân cây theo chiều gió thổi, khả năng bay thật nhanh của loài chim, và toàn bộ sự vận động mà bạn nhìn thấy qua tấm
gương, hay nói đúng hơn, hãy đưa tấm gương vào bên trong tâm trí mình. Bây giờ, tất cả những thứ mà bạn nhìn thấy là tấm gương, nhưng bạn lại không nhìn thấy chính tấm gương; điều mà bạn nhìn thấy là kiểu “phản chiếu” mà tấm gương đang tạo ra trước con mắt nhận thức của bạn. Nếu bạn thành công trong những cách giả vờ này, thì bạn sẽ thực sự bắt đầu cảm thấy rằng những thứ trước mặt bạn đều không phải là đối tượng, được sinh ra từ tấm gương, được sinh ra từ tâm trí. Thứ mà bạn đang nhìn xem là tấm gương, không gì ngoài tấm gương. Những điều mà bạn nhìn thấy một cách cụ thể là những hình ảnh bên trong tấm gương, nhưng trên thực tế, những hình ảnh đó chính là tấm gương... Nếu việc giả vờ của bạn đối với tấm gương thành công, thì bạn sẽ cảm thấy rằng những thứ mà bạn đang nhìn thấy đều là những tầm nhìn bên trong tâm trí bạn, bởi vì chúng thực sự là như thế. Bây giờ, đây không còn là một nguyên tắc mang tính cách nhận thức luận, mà bạn hiểu bằng lý trí của mình nữa, bạn sẽ đạt được một ý niệm lờ mờ trực tiếp, đi vào thế giới của sự Khai sáng Thiền. Có thể phải mất một thời gian nào đó để đạt được hiệu quả đầy đủ... Tôi thích một cửa sổ hơn là một tấm gương thực sự, bởi vì tấm gương phản chiếu người soi, phản chiếu gương mặt của tôi, với đôi mắt nhìn chăm chú của nó... Người ta có thể sử dụng tấm kính trong những tấm kính của họ, theo cùng cách thức như là một cửa sổ...”.
Suy niệm Vipassana Một hình thức trầm tư khác của Phật giáo là Vipassana, do chính Đức Phật dạy cách đây hơn 2500 năm, tại Satipathana Sutta. Linh mục Anthony de Mello, người đã từng nghiên cứu về cách suy niệm này dưới sự hướng dẫn của SN Goenka, một nhân vật rất có uy tín về Vipassana, qua một trong các khóa học 10 ngày của ông tại Igatpuri, lần lượt dạy về cách thức này tại Trụ sở Sadhana của ông ở gần Pune. Một bản sao về khóa học đó đã được phổ biến trong cuốn sách của vị linh mục này: Sadhana: a Way to God (Sadhana: Một cách thức đến với Thiên Chúa). Vipassana được thực hành thành ba giai đoạn: Trước hết, bạn cảm thấy hơi thở của mình trên đầu mũi, khi bạn hít vào thở ra, mà không cố gắng thay đổi tần số hoặc cường độ của việc hít thở. Sau khi đạt được sự thành thạo đầy đủ về nhận thức đối với hơi thở, mà không có sự cản trở của tư tưởng, thì bạn chuyển sang việc cảm thấy những cảm giác của cơ thể một cách có hệ thống, từ đầu xuống bàn chân, cũng không có sự cản trở của tư tưởng. Từ nhận thức về những cảm giác của cơ thể, bạn chuyển sang giai đoạn cuối cùng, được gọi là suy niệm trìu mến, trong đó, bạn thầm gieo rắc những tư tưởng yêu thương đối với toàn thể nhân loại và tạo vật. Linh mục de Mello đã thay đổi chuỗi bài tập này, và soạn thảo chúng thật kỹ lưỡng để phù hợp với những nhu cầu của mình. Ngài viết: “Đây là một trong những ích lợi chủ yếu của hình thức cầu nguyện này: sự thay đổi nơi bản thân mà dường như không phải cố gắng. Tất cả những nhân đức mà bạn chính thức cố gắng đạt được, qua các bài tập luyện sức mạnh ý chí của mình, dường như bây giờ đều đến với bạn một cách
không cần cố gắng – sự chân thành, đơn sơ, tử tế, kiên nhẫn... Những tình trạng nghiện ngập dường như giảm bớt, mà không cần giải quyết và nỗ lực về phía người tập luyện: tình trạng nghiện-sự vật như nghiện thuốc lá và sử dụng rượu thái quá, tình trạng nghiện-con người như sự đam mê và quá lệ thuộc”. Ngài bổ sung thêm: “Vì thế, nếu bạn mong ước cam kết thực hành các bài tập này một cách nghiêm túc và có hệ thống, thì tôi đề nghị bạn hãy bắt đầu bằng việc nhận thức về hơi thở của mình và những âm thanh trong vòng vài phút vào lúc đầu mỗi bài tập, rồi bạn hãy chuyển sang việc nhận thức về những cảm giác của cơ thể, mang lại cho cơ thể tầm quan trọng hơn, và chuyển sang tất cả các bộ phận của cơ thể, cho đến khi toàn bộ cơ thể trở thành một khối cảm giác dồi dào. Sau đó, bạn hãy nghỉ ngơi trong sự nhận thức về cơ thể mình như là một toàn thể, cho đến khi bạn bắt đầu bị sao lãng, và có nhu cầu chuyển từ một bộ phận này sang một bộ phận khác nữa. Điều này sẽ mang lại cho bạn những ích lợi tinh thần, giúp bạn cởi mở tâm hồn đối với thần thánh ...”
Lời Cầu nguyện tập trung Đây là một lời cầu nguyện dựa trên kinh điển The Cloud of Unknowing (Đám mây Vô tình) của một tác giả vô danh. Lời cầu nguyện tập trung bao gồm ba bước: 1/ Dành ra 1 hoặc 2 phút yên lặng, và thầm hướng tới Thiên Chúa đang ngự trong chiều sâu tâm hồn mình. 2/ Sau khi nghỉ ngơi một lúc ở trung tâm, bạn hãy chọn một từ đơn giản riêng rẽ mà bạn nghĩ là phù hợp, và để cho nó tự lập lại bên trong tâm hồn mình. 3/ Trong quá trình cầu nguyện, bất cứ khi nào bạn trở nên nhận thức về bất cứ điều gì khác, hãy đơn giản trở lại với hiện tại, bằng cách sử dụng ngay từ đó. Đến cuối lúc cầu nguyện, hãy dành ra vài phút để ra khỏi. Nhưng hoàn toàn không phải là như vậy. Cách mô tả sau đây về điều mà bạn nên làm sau khi ra khỏi lời cầu nguyện dựa trên một bài nói chuyện về sự Chú ý/ Ý định của Thomas Keating, người đã phổ biến lời cầu nguyện này trên khắp thế giới. Qua việc giới thiệu đề tài này, chúng ta hãy bắt đầu bằng một chút về nhân chủng học. Nhân chủng học nghiên cứu về bản chất con người, thông qua những biểu hiện thể lý, cảm xúc, tâm trí, văn hóa và thần bí của họ. Chúng ta hãy suy nghĩ về chính mình khi đến với sự hiện hữu, có thể nói rằng giống như một điểm nhỏ biểu thị việc chúng ta được thụ thai, “big-bang” (vụ nổ tạo ra vũ trụ) của chúng ta. Cơ bản, toàn bộ tiềm năng, thể lý, cảm xúc, tâm trí và tinh thần của con người chúng ta đều hiện diện trong cú “bang” ban đầu đó của việc tạo dựng – sự đi vào gia đình nhân loại của cá nhân chúng ta.
Giáo huấn về việc Thiên Chúa cư ngụ ở trong là một thuyết căn bản đối với cuộc hành trình thiêng liêng. Con người đích thực, điều mà chúng ta đang cố gắng nhận thức, thông qua việc thực hành thiêng liêng, không hề tách rời khỏi Thiên Chúa. Con người đích thực đang tự biểu thị tính cách thần thánh trong sự độc nhất, trong những tài năng, trong lịch sử cá nhân, trong điều kiện văn hóa của chúng ta, và trong toàn bộ phần còn lại của những yếu tố phức tạp, cùng hòa hợp trong việc hình thành đời sống ý thức, và biểu thị của nó qua những sinh hoạt khác nhau của chúng ta. Ngay bây giờ, sự dịu hiền vô biên của Thiên Chúa trừ đi tất cả những trở ngại mà chúng ta đặt đối lập với biểu thị đó, đang hiện diện nơi chúng ta đúng lúc này. Nhưng vì tình trạng mà nền thần học truyền thống vẫn gọi là tình trạng con người sa ngã, nên mỗi chúng ta đều không tiếp xúc được với năng lực khổng lồ này của tình yêu, vốn đang mời gọi chúng ta tham gia. Điều này không có nghĩa là chúng ta không có căn tính riêng của mình. Điều này cũng không có nghĩa là toàn bộ sự thu hút vào Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là toàn bộ sự mất mát chính mình. Chúng ta vẫn còn mang tính cách độc nhất, cho dù chúng ta là bất cứ ai, nhờ việc chúng ta được tạo dựng, nhưng chúng ta không có sự sở hữu đối với tính cách độc nhất đó. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thôi thúc chúng ta trả lại bất cứ điều gì chúng ta có, toàn bộ điều mà chúng ta có, nhiều như chúng ta có, và tất cả mọi sự mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa. Trả lại toàn bộ cho Thiên Chúa trong tình yêu, đó chính là công việc của cuộc sống hàng ngày.
Chung quanh con người đích thực, có một vòng tròn nhận thức, mà chúng ta có thể gọi là bản chất tinh thần của mình. Nó có hai khả năng chính: trí năng thụ động và ý muốn hướng lên Thiên Chúa. Chúng lần lượt là mong ước bẩm sinh đối với chân lý bất tận, và mong ước bẩm sinh đối với tình yêu vô biên. Vì hậu quả tác hại từ tình trạng sa ngã của con người, nên thông thường, chúng ta không có quan hệ với bản chất tinh thần của mình. Ở mức độ ngắn hạn, ý thức tâm lý thực sự của chúng ta bao gồm con người được hình thành trong nhà, tự biểu thị, và không phải là Thiên Chúa. Cuộc hành trình thiêng liêng khởi sự, khi chúng ta trở nên nhận thức rằng ý thức tâm lý bình thường của mình bị chi phối bởi con người sai trái, cùng với các chương trình của nó về hạnh phúc, và quá-đồng nhất với điều kiện văn hóa của chúng ta. Cuộc hành trình thiêng liêng liên quan đến sự thay đổi thái độ nội tâm, bắt đầu bằng việc nhận biết tình trạng không có quan hệ với bản chất thiêng liêng và con người đích thực của mình, và đang chọn phương tiện để trở lại. Chỉ khi đó, thì con người đích thực của chúng ta và tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mới được biểu thị, để sống cuộc đời thần thánh. Nghi thức chiêm niệm là hành động phát xuất từ con người đích thực, từ trạng thái thâm tâm của chúng ta. Việc giải phóng con người đích thực của chúng ta là một quyết tâm vĩ đại, và là một chương trình đòi hỏi thời gian. Sự Cầu nguyện Tập trung hoàn toàn phục vụ cho chương trình này. Sẽ là một sai lầm khi nghĩ rằng việc Cầu
nguyện Tập trung chỉ như là một thời kỳ nghỉ ngơi, hoặc một thời kỳ thư giãn, mặc dù đôi khi, việc này cung cấp những điều đó. Đây cũng không phải là một cuộc hành trình để đến với hạnh phúc. Bạn có thể đạt được đôi chút hạnh phúc, trên đường, nhưng bạn cũng sẽ phải chịu đựng sự hao mòn và nước mắt của sự rèn luyện, trong việc trau dồi sự thinh lặng nội tâm. Lối suy nghĩ về những tư tưởng bình thường là cách thức chủ yếu mà bản chất con người vẫn nghĩ đến, để ẩn náu khỏi vô thức. Vì thế, khi tâm trí chúng ta bắt đầu tĩnh lặng trong việc Cầu nguyện Tập trung, thì những mảnh vụn thuộc về cảm xúc của cả đời người lại xảy đến, dưới hình thức của những nhận biết từ từ, và đôi khi đột ngột, về việc thế nào là con người sai trái, và con người được hình thành trong nhà này, mà chúng ta đã xây dựng từ sớm trong thời thơ ấu, ra sao, để đối phó với nỗi đau không thể chịu đựng nổi, đã trở nên bị hướng dẫn sai, từ các giá trị đích thực của con người, trong việc tìm kiếm những thứ thay thế cho Thiên Chúa. Những hình ảnh vốn thực sự không có bất cứ sự hiện hữu nào, ngoại trừ trong trí tưởng tượng của chúng ta, đều được phản ánh nơi những người khác, thay vì thẳng thắn đối đầu với nguồn lực của chúng nơi chính mình. Tất nhiên, Thiên Chúa có những phương cách khác, để đánh thức chúng ta về sự hiện diện của Người. Chẳng hạn, Người hoàn toàn tự do, để tiếp cận và lôi kéo chúng ta khỏi phạm vi đó vào bất cứ lúc nào, nhưng bạn đừng trông mong ở điều này. Tốt hơn, bạn nên thực hành một cách rèn luyện. Cách rèn luyện tích cực sẽ là gì, để hỗ trợ việc cầu nguyện tập trung của chúng ta, sao cho việc này không trở
nên tập trung vào-bản thân, hoặc chỉ là một phương pháp để tự-hoàn thiện, nhưng đích thực là một sự thấu triệt về tính cách dịu hiền bất tận của Thiên Chúa, Đấng đang sống cuộc đời của Người ở bên trong chúng ta? Nói chung, có thể gọi cách rèn luyện như vậy là “nghi thức chiêm niệm”; cụ thể, chúng ta có thể gọi cách này là “thực hành sự chú ý/ ý định”. Khi bạn nảy ra vấn đề từ cách cầu nguyện tập trung, thì giây phút hiện tại là những gì xảy đến lúc bạn mở mắt ra. Bạn ở trong giây phút hiện tại của việc cầu nguyện, khi bạn hoàn toàn mở ra cho sự sống và hoạt động thần thánh bên trong mình. Bây giờ, bạn đứng lên khỏi ghế, và bạn tiếp tục cuộc sống hàng ngày. Đây là nơi mà sự chăm chú vào nội dung của giây phút hiện tại là cách thức chỉ thị cho vô số công việc, tư tưởng và sự kiện của cuộc sống hàng ngày. Sự chú ý đến bối cảnh này đơn giản có nghĩa là làm những điều mà bạn đang làm. Đây là một trong những đề nghị chính của các bậc thần nghiệm. Khi người môn đệ đến xin chỉ giáo và nói: “Con mong muốn tìm được con người đích thực, và trở thành một người chiêm niệm. Vậy con nên làm gì?”, thì bậc thần nghiệm đều trả lời bằng ngôn ngữ bình thường nhất: “Con hãy làm những việc mà con đang làm”. Điều này có nghĩa là: “Hãy chú ý đến giây phút hiện tại, và làm bất cứ việc gì là nội dung ngay trước mắt của nó, và hãy giữ cho giây phút này ở đó”. Chẳng hạn, đến bữa ăn tối. Tốt, bạn hãy sắp xếp thức ăn trên bàn. Đây là thói quen tốt thực sự. Việc mở T.V vào lúc này, hoặc gọi điện thoại không cần thiết có thể không phải là thói quen tốt. Sự tham dự vào giây phút hiện tại có nghĩa là tâm trí chúng ta tập trung vào việc chúng ta đang làm, giống như chúng ta vẫn hoạt động suốt cả ngày.
Do đó, chúng ta được kết hợp với Thiên Chúa trong giây phút hiện tại, thay vì tự hỏi mình sẽ làm gì kế tiếp hoặc ngày mai. Chúng ta có thể dành ra một lúc thuận tiện nào đó để lên kế hoạch, nhưng không phải là bây giờ. Việc hoàn toàn hiện diện với người nào đó mà bạn đang nói chuyện là một trong tất cả những cách thực hành khó khăn nhất. Sự hiện diện của bạn sẽ thường làm được nhiều hơn, so với những điều mà bạn nói. Hơn nữa, nếu sự hiện diện của bạn phát xuất từ một nơi thẳm sâu bên trong, thì lòng thương xót của Thiên Chúa vốn đang truyền cảm hứng cho bạn sẽ ở đó với họ, đến mức độ họ có khả năng đón nhận nó. Việc hoàn toàn hiện diện với những đứa con, nếu bạn có chúng; với những người già nua, nếu bạn có họ; với những người được khuyên bảo, nếu bạn có họ; với công việc của giây phút hiện tại vốn cần đến sự thực hiện đầy trách nhiệm – điều này có thể được gọi là cách làm thế nào để hành động từ trung tâm, làm thế nào để thực hiện nghi thức chiêm niệm, làm thế nào để mang lại trật tự cho cuộc sống hàng ngày, bằng cách hiện diện đối với công việc của giây phút hiện tại. Điều này cắt đứt một số lượng khổng lồ những ý nghĩ không cần thiết, những kế hoạch tự - đề cao mình, và tự hỏi người ta đang nghĩ gì về chúng ta. Nếu chúng ta khước từ việc nghĩ đến bất cứ điều gì, ngoại trừ những việc chúng ta đang làm, hoặc người mà chúng ta đang ở với, thì chúng ta phát triển được thói quen hiện diện trong giây phút hiện tại. Theo một cách thức, giây phút hiện tại trở nên thánh thiêng giống như bạn đang ở
trong nhà thờ hoặc ngôi đền. Nếu bạn là một người đang phục vụ tại quầy rượu, và bạn hiện diện đối với bổn phận của mình, thì còn tốt hơn nhiều, so với việc bạn hiện diện trong nhà thờ hoặc ngôi đền, mà lại cứ nghĩ đến việc ở trong quán rượu. Ít nhất, bạn đang hiện diện với chính mình, khi bạn chú ý đến những việc mà bạn đang làm. Vậy thì sự chú ý là một cách thức làm những việc mà chúng ta đang làm. Điều này làm rạn nứt chiếc vỏ cứng của con người giả dối (nhận thức tâm lý của chúng ta về cuộc sống hàng ngày), trong đó, chúng ta là trung tâm của vũ trụ, trong khi tất cả mọi sự khác đều đang đang xoay quanh những nhu cầu hoặc mong ước đặc trưng của chúng ta. Đây là một ảo tưởng, nhưng thật không may, nó lại là di sản thừa kế, mà tất cả chúng ta đều mang theo mình từ cuộc sống đầu đời. Vì thế, sự thực hành cách chỉ chú ý đến những việc chúng ta đang làm đối với một phần nào đó trong ngày, vì tình yêu Thiên Chúa, và không để ý đến mọi tư tưởng khác, thì đó là một cách thức thực tế để cởi mở chính mình, tới một mức độ sâu xa hơn của việc chiêm niệm. Cách thực hành này sẽ không đạt hiệu quả ngay lập tức, nhưng việc thực hành thường xuyên vẫn đạt được những kết quả có tầm xa. Việc này có thể được gọi là cách làm thế nào để hoạt động. Nguyên nhân của những việc bạn đang làm cũng chữa lành được mức độ thiêng liêng của con người giả dối. Khi bạn làm những việc mà bạn đang làm vì tình yêu Thiên Chúa, thì ý định của bạn liên kết bạn với sự hiện diện thần thánh bằng một cách thức mạnh mẽ. Sức mạnh của ý định
thật mênh mông. Ý chí thực sự đi vào sự kết hợp với Thiên Chúa, mặc dù có thể bạn không ngay lập tức trải nghiệm được một cách có ý thức về những tác động của sự kết hợp này. Ý định của tôi là tại sao tôi đang làm những việc mà tôi đang làm. Sau đây là cách thực hành: Bạn hãy chọn một thời gian nào đó mà bạn cố ý thiết lập, và đổi mới ý định của mình về việc tiến hành công việc đặc trưng nào đó vì tình yêu Thiên Chúa. Nói chung, tâm trí chúng ta thường rất tản mạn, đến nỗi chúng ta cứ tiếp tục hay quên. Khi bạn có thời gian hoặc một hoạt động đặc trưng, mà bạn cố ý làm việc này như là một cách thực hành hàng ngày, thì điều này sẽ nhanh chóng chỉ cho bạn thấy ảnh hưởng từ chủ tâm của bạn đối với con người giả dối. Không ai làm bất cứ việc gì mà không có động cơ. Bạn không biết tại sao mình đang làm việc nào đó, trừ phi bạn biết được động cơ thuộc về cả ý thức lẫn vô thức. Chẳng hạn, ngay khi bạn bắt đầu cố gắng làm một công việc đặc trưng sắp tới vì tình yêu Thiên Chúa, thì động cơ của con người giả dối lại bắt đầu xuất hiện, và bạn có thể nhận thấy mình hành động vì lòng ghen tị; hoặc thậm chí bạn còn muốn dồn ép kẻ đã đối xử bất công với mình; hoặc bạn đang cố gắng vượt lên trong tình huống nào đó, và bạn chà đạp lên những quyền lợi của một số người khác. Nhóm ý định xấu xa mà con người giả dối động viên lại nổi lên, khi bạn cố gắng duy trì một ý định tốt đẹp trong vòng vài phút. Sự thấu hiểu vĩ đại của các bậc thần nghiệm là ý định trong sáng đưa đến sự trong sáng của tâm hồn; động cơ ích kỷ dần dần trút bỏ, và thói quen có ý định tốt được củng cố một cách vững chắc. Bạn bắt đầu đi vào thánh ý của Thiên
Chúa, vốn phải biểu thị lòng thương xót vô biên trong những hoàn cảnh hiện tại, mặc dù đau thương, mặc dù vui mừng, mặc dù dường như bị tước mất khỏi sự hiện diện thần thánh. Ngay khi bạn tập trung vào ý định của mình – nguyên nhân tại sao bạn đang thực hiện hành động đặc trưng này –, thì động cơ vô thức của bạn liền xuất hiện. Động cơ vô thức có thể ở trong sự phục vụ của chúng ta, mặc dù bề ngoài có thể có vẻ nhiệt tình, nhưng chúng ta lại thực sự đang tìm kiếm lời khen ngợi. Nói cách khác, những mong ước thầm kín của chúng ta bắt đầu nổi lên trong ý thức, khi chúng ta cố ý tập trung ý định của mình vào việc yêu mến Thiên Chúa, trong tất cả mọi việc chúng ta làm. Cách làm thế nào để làm việc – sự chú ý. Tại sao tôi làm việc – ý định. Ý thức về hai khía cạnh này đưa đến phẩm chất thứ ba và cuối cùng của nghi thức chiêm niệm – ai đang làm công việc. Khi bộc lộ được những trở lực tinh thần của lòng tự hào, ham muốn và bất cứ điều gì khác có thể bị che giấu trong vô thức, thì bây giờ, chúng ta đang tiếp cận với con người đích thực của mình; chúng ta đang tiếp cận với trung tâm của thâm tâm mình; chúng ta đang tiếp cận với tình yêu bằng cách yêu mến chính nó. Điều gì sắp sửa xảy ra? Khi không có ý định làm bất cứ điều gì đặc biệt, không nhất thiết làm bất cứ điều gì đặc biệt, thì người ta bắt đầu tìm thấy Thiên Chúa nơi bạn, lúc bạn thực hiện những việc bạn có bổn phận phải làm một cách khiêm tốn. Sự hoàn toàn phục tùng Thiên Chúa cho phép năng lực thần thánh tỏa sáng, và khi nhìn thấy bạn, thì những người khác đều có cảm giác là họ đang tiếp xúc với chính Thiên Chúa, hoặc ở giữa một cộng đoàn, nơi mà tình yêu thần thánh tồn tại. Đây là điều mà một cộng đoàn Kitô giáo
có bổn phận phải trở thành, cho dù đó là một gia đình, giáo xứ hoặc tổ chức. Để làm việc hoặc hoạt động trong cuộc sống hàng ngày, cách thức thứ ba có thể được gọi là sự truyền đạt. Khi sự chú ý đến giây phút hiện tại và một ý định trong sáng đều được củng cố như là những thói quen, thì lúc đó, theo ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này, bạn có được nghi thức chiêm niệm. Bạn lĩnh hội, vui hưởng, và đón nhận khả năng chiêm niệm, có lẽ không có từ nào, hoặc không có bất cứ người nào có khả năng giải thích được điều này. Mọi người nhận biết rằng bằng cách này hay cách khác, [Chúa Thánh Thần] đang hành động nơi bạn, hiện diện trong bạn, và yêu mến những điều đó nơi bạn. Đây là bầu khí mà trong đó, con người có thể phát triển và trở nên hoàn toàn sống động. Để trở nên sống động, người ta cần cảm thấy mình được yêu thương như là một con người. Tất nhiên, tình yêu vĩ đại nhất là tình yêu thần thánh, đặc biệt khi tình yêu này trở nên trong suốt nơi một người khác. Và tình yêu này ấn tượng nhất, khi thậm chí chính người đó không ý thức được nó và nó vẫn hoàn toàn xảy ra.
Đường lối của Chúa Thánh Thần Hầu hết các truyền thống tôn giáo đều xác nhận rằng Trí Thông minh Tột bậc chính là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Để cho ngắn gọn, chúng ta hãy gọi Trí Thông minh Tột bậc này là Chúa Thánh Thần. Mối quan hệ lý tưởng với Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta những hoa quả như: yêu thương, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hòa nhã, tiết độ. Bao nhiêu người trong chúng ta có thể tuyên bố mình là người nhận được tất cả hoặc bất cứ hoa quả nào trong số này? Mặt khác, tất cả chúng ta đều nặng gánh với những bối rối, lo lắng, sợ hãi, ghen tị, tức giận, buồn phiền, chán nản, và nhiều cảm xúc tiêu cực khác. Tại sao lại như vậy? Một lý do là trí thông minh của chúng ta không được trang bị đầy đủ, để hướng dẫn chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Sau đây là nguyên nhân tại sao: Hãy tự hình dung mình đang lái một chiếc xe hơi, mà tấm kính chắn gió của nó đã bị bôi đen, vì thế, bạn không thể nhìn thấy phía trước, chỉ nhìn thấy bên trái, bên phải và phía sau, thông qua tấm kính chiếu hậu. Và bạn cũng không thể giảm bớt hoặc gia tăng tốc độ của chiếc xe. Bạn chỉ có thể thay đổi hướng đi mà thôi. Cuộc đời của bạn cũng thực sự giống như vậy: bạn có thể nhìn thấy hôm nay như thế nào chung quanh mình, và bạn biết ngày hôm qua và trước đây như thế nào. Nhưng bạn không thể nhìn thấy tương lai. Không lạ gì khi tất cả chúng ta đều gần như người bị suy nhược thần kinh. Như vậy, chúng ta xây dựng một ý thức sai lầm về sự an toàn, lòng tự trọng và tự tin, bằng cách đòi hỏi sự tán
thành, và thậm chí đôi khi, cả lời khen ngợi từ các bạn bè, cấp trên, và xã hội nói chung. Chúng ta làm như vậy qua cách chúng ta ăn mặc, hành động và tự trình bày về mình. Khi bị thất bại, thì chúng ta lại cảm thấy tức giận, thất vọng, và ghen tị với những người thành công ở những điều chúng ta thất bại. Những nỗi thất vọng này chỉ càng bổ sung thêm những gánh nặng bình thường, mà chúng ta vẫn cố gắng che giấu đối với chính mình, bằng cách tự vùi mình vào công việc, thú tiêu khiển, nghiện ngập hoặc các mối quan hệ. Nhưng những gánh nặng của chúng ta lại nổi lên để quấy rầy cuộc sống chúng ta. Cùng với Chúa Thánh Thần, toàn bộ tình trạng này đạt được gì? Thưa tất cả mọi sự. Chúng ta không thể nhìn thấy tương lai, nhưng Chúa Thánh Thần thì có thể nhìn thấy được. Và Người có thể hướng dẫn chúng ta, vì thế, chúng ta vẫn có thể sống một cách đầy vui tươi, sau khi đã tự cất gánh nặng. Chúng ta làm thế nào để đạt được sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần? Chúng ta không có cách nào tiếp cận được với Người, nhưng Chúa Thánh Thần lại có cách tiếp cận với chúng ta. Chúng ta có thể mời Người đến điều khiển cuộc sống, tùy theo những nhu cầu thực sự của chúng ta, nhưng Người chỉ có thể làm như vậy, nếu chúng ta từ bỏ những cách thức lộn xộn, trong việc điều hành cuộc sống của mình. Chiếc xe của chúng ta không thể có hai tài xế. Chúa Thánh Thần không thể đưa dẫn chúng ta, trừ phi chúng ta từ bỏ chiếc ghế tài xế của mình. Vậy thì đây là bước kế tiếp của chúng ta. Bạn hãy biến câu này thành lời cầu nguyện của mình: Hãy thầm lập lại trong tâm trí câu: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến”. Hãy làm như vậy trong từng phút, khi tâm trí của chúng ta
rảnh rang – đang đứng đợi tại trạm xe xe buýt, đi bộ về nhà; nhưng không đọc câu này trong khi đang đi qua đường, ít nhất cho đến khi chúng ta quen thuộc với nó. Khi chúng ta làm như vậy, thì hai điều sẽ xảy ra: 1. Toàn bộ các loại tư tưởng và cảm giác khác sẽ đến với tâm trí chúng ta. Thái độ của chúng ta đối với chúng nên vô tư vui tươi, như thể chúng được người khác nào đó tạo ra. Chúng ta chỉ tiếp tục lập lại: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến”. Nếu chúng ta quên câu này vào bất cứ lúc nào, thì chúng ta chỉ đọc lại nó ngay khi chúng ta nhận ra rằng mình đã bỏ quên nó. Ý nghĩa của việc thực hành của chúng ta là chúng ta chỉ nhận trách nhiệm đối với tư tưởng riêng lẻ này : “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến” mà thôi. Bất cứ điều gì khác đến với tâm trí chúng ta đều không được mời. Chúng ta không cố gắng xua đuổi những tư tưởng và cảm xúc này đi. Điều này giống như gõ búa vào một chiếc bóng trên tường, sẽ chỉ càng làm hại bức tường, mà không hề làm được gì cho chiếc bóng. Nhưng chỉ bằng cách chú ý đến nó, với chiếc đèn nháy nơi sự chú ý của mình, thì chúng ta làm tan biến được tư tưởng này, hoàn toàn giống như một chùm ánh sáng sẽ làm tan biến chiếc bóng. 2. Khi chúng ta chọn cách thực hành này, thì điều thứ hai xảy ra là câu: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến” trở lại với chúng ta theo ý muốn riêng của nó, và nó tự lập lại vào những lúc rảnh rỗi trong ngày, khi chúng ta quên làm như vậy, và kêu gọi chúng ta
tiếp tục lập lại một cách có ý thức. Một số điều khác mà chúng ta nên làm là: Bất cứ khi nào có bất cứ điều gì không vui đè nặng lên mình, thì chúng ta chỉ cần suy nghĩ rằng: Tôi không thể hiểu được nỗi đau, sự nhầm lẫn, nỗi thất vọng này. Và khước từ cố gắng tìm hiểu điều đó. Tất cả chỉ có thế. Hãy khước từ cố gắng tìm hiểu nó suốt thời gian còn lại trong ngày. Khi chúng ta làm như vậy, thì Trí Thông minh thấu hiểu hết mọi sự của Chúa Thánh Thần mới tiếp quản được. Chỉ cần khước từ chấp nhận bất cứ câu trả lời nào mà tâm trí chúng ta cung cấp: tự đổ lỗi cho mình, đổ lỗi cho người khác, hoặc đổ lỗi cho hoàn cảnh bên ngoài nào đó. Chỉ khi nào chúng ta khước từ chấp nhận bất cứ câu trả lời nào phát xuất từ suy nghĩ riêng của mình, thì Chúa Thánh Thần sẽ can thiệp. Hãy hoàn toàn thử thực hiện điều đó, và bạn sẽ nhận thấy những kết quả kỳ diệu. Những kết quả này sẽ mang lại cho bạn sự tự tin để không nghĩ đến nữa, lần tới khi bạn đối diện với một vấn đề tương tự. Bạn không cần phải nói hoặc làm điều gì hơn nữa về vấn đề này. Bạn đang ở trong bàn tay của Chúa Thánh Thần. Kết quả được mô tả tốt nhất qua đoạn văn sau đây, trong một e–mail (lá thư điện tử) mà tôi đã nhận được:
Những dấu hiệu của sự an bình nội tâm Hãy tìm cho ra những dấu hiệu của sự an bình nội tâm. Tâm hồn của rất nhiều người đã được bộc lộ sự an bình nội tâm, và có thể những người ở khắp nơi có thể được truyền lại dấu hiệu này, theo tỉ lệ lan tràn. Sự an bình nội tâm có thể đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với tình trạng mà cho đến nay, đã từng là một tình trạng khá bền vững của sự xung đột trên thế giới.
Một số dấu hiệu cần tìm kiếm Khuynh hướng suy nghĩ và hành động một cách hồn nhiên, hơn là theo những nỗi sợ hãi dựa trên những sự kiện trong quá khứ. Khả năng đáng tin cậy để vui hưởng từng giây phút. Mất quan tâm trong việc phê phán những người khác. Mất quan tâm trong việc giải thích hành động của những người khác. Mất quan tâm đối với sự xung đột. Mất khả năng lo lắng (Đây là một triệu chứng rất nghiêm trọng). Những giai đoạn thưởng thức thường xuyên, tràn ngập.
Cảm giác hài lòng về mối quan hệ với những giữa khác và với thiên nhiên. Những tràng mỉm cười thường xuyên. Khuynh hướng ngày càng tăng trong việc để cho các sự việc xảy ra, hơn là làm cho chúng xảy ra. Tính nhạy cảm gia tăng đối với lòng quý mến mà những người khác biểu lộ, cũng như sự thôi thúc không thể kiềm chế trong việc mở rộng tình yêu thương.
5 Thành công có Dự tính trước
Luis đi suốt trường cao đẳng với tâm trạng ngạc nhiên. Anh không hề có ý tưởng về những điều mình mong muốn hoặc trở thành. Cha anh là một kỹ sư, và Luis nghĩ rằng mình cũng nên trở thành kỹ sư. Anh được nhận vào một trường cao đẳng kỹ thuật, nhưng anh lại bỏ, khi chứng kiến cả đám kỹ sư bị thất nghiệp đang ganh đua nhau vì công việc. Tình trạng này xảy ra trước cuộc di cư Vùng Vịnh, và sự phát triển kỹ nghệ đã thay đổi quang cảnh tuyển dụng. Luis chọn nghề làm báo thay vào đó, anh đạt được một văn bằng về ngành này, nhưng lại có một việc làm trong một xí nghiệp xuất bản. Anh cũng kiếm được hai công việc bán thời gian, một việc với tư cách là người viết quảng cáo, việc kia là người viết bài đặc biệt trong một tạp chí chính trị nhỏ sớm bị đình bản.
Anh thực hiện một số nỗ lực đối với nghề làm báo tự do, nhưng nhiều năm qua, hầu hết những bài anh viết đều bị loại bỏ. Trong lúc chờ đợi, anh quan tâm đến cách Suy niệm Tiên nghiệm (TM), đã được Mahesh Maharishi Yogi giới thiệu cho phương Tây, và nổi tiếng với ban nhạc The Beatles, với các ca sĩ nhạc Pop người Anh. TM đã đạt được danh tiếng trên khắp thế giới, nhưng việc tiếp cận với cách thức này vẫn chưa dễ dàng sẵn có ở khắp nơi, tại Ấn Độ, tại Mumbai, nơi Luis sinh sống cũng không có. Nhưng khi đọc nhiều bản báo cáo về lý thuyết và cách thực hành TM, liên quan đến việc thầm lập đi lập lại công thức tụng niệm chỉ có một từ, thì anh quyết định đặt ra một công thức tụng niệm cho chính mình, và thực hành riêng với nó, mà không có sự khởi xướng của những người thành thạo TM. Từ mà anh chọn làm công thức tụng niệm của mình là “Po”, một thuật ngữ được nghĩ ra bởi Edward de Bono, cha đẻ của Lối Suy nghĩ một Chiều, vì những mục đích khác nhau. Khi tiến hành việc thực hành, anh phát hiện được những kết quả đầy ấn tượng nơi bản thân. Anh nhận thấy sự thừa thãi của năng lực, mà trước đây dường như luôn luôn bị cung cấp thiếu thốn; anh cảm thấy một cảm giác hạnh phúc nói chung, và bắt tay vào việc phổ biến hai dự án. Vài tháng sau, anh được biết rằng việc khởi xướng TM hiện nay đã sẵn có tại Mumbai. Anh đã tự khởi xướng và viết vài bài về kinh nghiệm của mình cho báo chí, các bài này đã ngay lập tức được các báo chí tiếp nhận. ***
TM đã được Mahesh Maharishi Yogi khởi xướng năm 1858. Khi ông xuất hiện từ nơi ẩn thân của mình tại Himalaya, sau 18 năm lưu lại làm đồ đệ của Gurudev Swami Brahmananda Saraswati Jagadguru Shankaracharya ở Jyotir Math. Lúc Gurudev qua đời, thì bên giường người chết, Mahesh, người môn đệ yêu dấu của ngài, đã bộc lộ lời hứa rằng ông sẽ phát triển và truyền bá một phương pháp phát triển năng khiếu bản thân, dành cho con người hiện đại. Mashesh Yogi đi theo những chỉ dẫn từ bậc thầy của ông, khi loại bỏ cách thực hành xưa cũ về yoga với công thức tụng niệm, để theo cách thực hành mà ông coi như là chủ yếu đối với yoga. Ông đã đi vào một thế giới đầy hoài nghi, khi chỉ được trang bị bằng một kho tàng những công thức tụng niệm bí mật, và mặc một chiếc áo trắng. Ông khởi đầu bằng một chuyến đi đến Ấn Độ, và lúc ông tiến gần tới phía nam, thì ông mới chỉ làm rạn nứt được lớp vỏ cứng của sự phản kháng dữ dội mà ông đã đương đầu, ngay cả giữa các cá nhân bình thường vốn dễ tiếp nhận. Điều dường như hoàn toàn quá đơn giản để trở thành sự thật! Phương pháp của ông bao gồm việc để cho người đã được thụ giáo thầm lập đi lập lại một công thức tụng niệm bí mật, không được tiết lộ, bằng tiếng Phạn, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần trong một thời gian ngắn là 20 phút. Một doanh nhân là người đầu tiên hoán cải theo phương pháp này. Ông ta đã tài trợ cho chuyến đi của Maharishi đến vùng Đông-Nam Châu Á, nơi vị này nhận được sự đáp trả đáng khích lệ hơn nhiều. Một thời gian ngắn sau đó, Maharishi đi sang Anh, châu Âu và Mỹ, thành lập những trung tâm suy niệm dọc trên đường, và kết nạp những người giảng dạy cách suy niệm, đến lượt họ truyền bá phương pháp, và kết nạp những người khác vào cách thức
huyền bí này. Khi phong trào phát triển, thì Maharishi nhận được sự quảng cáo phổ biến rùm beng, chủ yếu từ ban nhạc Pop The Beatles, lúc đó đang đạt tới đỉnh cao của sự nổi tiếng. Ánh sáng quảng cáo ngay lập tức phản chiếu trên Mahesh Yogi, người tạo nên phần lớn ánh sáng này. Ông đã điều hòa ashram hiện đại cực đoan tại Rishikesh, và gần như chào đón toàn thế giới kinh doanh đột ngột đến thăm, hết đợt này tới đợt kia. Chắc hẳn vì mệt mỏi đối với nhóm của nhau, và hoàn toàn quá quen thuộc với bầu khí mà họ đang cố gắng thoát khỏi, và chắc hẳn vì mong đợi quá nhiều và quá sớm, nên các ca sĩ, ngôi sao và diễn viên đang lên nhanh chóng bắt đầu bộc lộ nỗi thất vọng của họ. Sau đó, từng người một, ban nhạc The Beatles đã rời bỏ ông, và những người còn lại cùng với họ. Danh tiếng của Maharishi trên thị trường đã bị tan tành. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng tiến hành việc quay trở lại, bằng một chuyến đi sang Mỹ, với sự giúp đỡ của vài người ủng hộ chân thành, nhưng hầu như ông hoàn toàn bị phớt lờ – dường như phương pháp của ông đã được thử nghiệm và chứng tỏ là thất bại. Cái tên Maharishi bị bỏ qua trong các tựa đề của các bản tin tức, nơi trước đây tên của ông đã từng được nhắc đến một cách rất nổi bật trong nhiều tháng liên tục. Nhưng dường như sự phê phán đã bị thông qua một cách quá nhanh chóng. Sự hỗ trợ mới hoàn toàn đến từ những nguồn bất ngờ. R. K. Wallace, một thanh niên bị vỡ mộng bỏ học nửa chừng từ một trường cao đẳng tại California, là một trong những người đã từng tình cờ thử phương pháp TM, khi anh ta không có việc gì tốt hơn để làm với thời gian của mình. Anh đã đạt được một cảm giác đổi
mới về phương hướng, trước sự ngạc nhiên của mình, và đã ghi danh vào trường Đại học California, Los Angeles. Anh chuyên về vật lý, và tiếp tục nghiên cứu về sinh lý học sau khi tốt nghiệp. Ở tuổi 26, anh đạt được học vị tiến sĩ, với thế mạnh của luận án tiến sĩ về những Ảnh hưởng Sinh lý của cách Suy niệm Tiên nghiệm. Đây là một nghiên cứu tiên phong, và trong luận án này, Wallace đề xuất rằng TM đã tạo ra một “trạng thái bên dưới sự chuyển hóa”, trạng thái thứ tư của ý thức, khác biệt với trạng thái ngủ, mơ màng, và đang thức giấc. Những nghiên cứu sau này do Wallace cộng tác với Tiến sĩ Herbert Benson, và độc lập với những người khác, đã củng cố những phát hiện trước đây và mở ra những triển vọng kỳ diệu hơn. Tạp chí The Hospital Times ở Luân Đôn tóm tắt những kết quả: “TM đã làm gia tăng năng lượng và năng suất trong bất cứ loại công việc nào, gia tăng sự thanh thản của tâm trí, đi đôi với việc giảm bớt tình trạng căng thẳng về thể lý và tinh thần, làm mất một phần hoặc hoàn toàn mong ước đối với các loại thuốc gây ảo giác và tương tự như vậy, kể cả rượu, gia tăng tính sáng tạo, khả năng trực giác v.v..., cải thiện những rối loạn về chức năng, như tình trạng cơ thể nghèo nàn và chứng mất ngủ, và vận động tốt hơn đối với các nguồn lực của cơ thể, để đáp ứng những hoàn cảnh bất lợi như tai nạn, tình trạng đơn điệu về cảm giác, và giải phẫu”. Các bài báo về học thuật đã phổ biến trong vài nhật báo y khoa có danh tiếng đạt được qua chứng minh khoa học. Hơn 80 trụ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm và trường đại học đang bận rộn với việc khai thác những khả năng dường như bất tận của TM.
Tầm quan trọng của những khám phá này đã không mất ý nghĩa đối với Maharishi. Bản thân ông vốn tốt nghiệp về vật lý, nên ông hoàn toàn đánh giá được tiềm năng của nghiên cứu khoa học, đặc biệt từ khi những kết quả rất thuận lợi đối với phong trào của mình. Ông đã thành lập Trường Đại học Quốc tế Maharishi, với Tiến sĩ Wallace trẻ trung làm giám đốc, để khuyến khích nghiên cứu thêm và phổ biến những phát hiện. Ông cũng thành lập một ngành Khoa học về Trí thông minh Sáng tạo, vốn sẽ cung cấp cơ sở lý thuyết cho TM, và làm cho phương pháp này đáng kính trọng để giảng dạy tại các trường đại học. Hiện nay, trên 1000 trường đại học đang giảng dạy phương pháp này – nhiều trường trong số đó đáng tin cậy. Đối với các doanh nhân, thật an ủi khi biết rằng TM đã được chấp nhận bởi hai trong số những cột trụ uy tín nhất của giới có ảnh hưởng, nghĩa là cộng đồng khoa học và các trường đại học. Và chính họ hình thành cột trụ thứ ba, họ vô cùng phấn khởi khi tham gia. Tuy nhiên, cuối cùng, Frederic Poneman đã đưa ra lý lẽ dứt khoát ủng hộ TM: “Đối với nhiều người, điều đang trở nên rõ rệt là công việc kinh doanh không thể nào đủ khả năng không sử dụng phương pháp này. Việc không sử dụng phương pháp này đưa đến sự mất mát hàng triệu đô la”. Theo ngôn ngữ của các doanh nhân, điều này có nghĩa là TM mang lại lợi nhuận! *** Hiện nay, Luis đã đa dạng hóa các hoạt động của mình. Anh gia nhập Bộ phận Quan hệ Quần chúng của một
công ty lớn, giúp vợ anh khởi đầu một hoạt động riêng của chị, về những khái niệm và phương pháp tự-phát triển, việc này đã chứng tỏ là thành công. Anh vẫn tiếp tục thực hành TM, nhưng pha trộn phương pháp này với hai phương pháp tương tự, mà anh cũng nhận thấy hữu ích: Suy niệm Vipassana và việc Đào tạo Thuật Giả nghiệm, đang càng ngày càng được sử dụng trong các chương trình quản lý. Lối giải thích của anh về TM, Suy niệm Vipassana và việc Đào tạo Thuật Giả nghiệm được trình bày chi tiết dưới đây:
Suy niệm Hữu ích
Mục đích: Đạt được sự thanh thản và thấu hiểu bản chất của mình, và hoàn thành tiềm năng trong mọi lãnh vực cuộc sống của bạn. Tư thế:
Ngồi thoải mái.
Thời gian: Lý tưởng là những kỳ trong vòng 30 phút, mỗi ngày hai lần, nhưng cũng nên thực hiện thường xuyên hơn, thành những kỳ trong 10 phút.
Thủ tục: 1. Hãy ngồi thật thoải mái ở chỗ nào mà bạn không thể bị quấy rầy. Xe buýt và tàu lửa cũng phù hợp, nếu bạn có thể chợp mắt ngủ được. 2. Nhắm mắt lại. Hít thở thật thanh thản trong vòng hai phút. Hãy để cho những tư tưởng của bạn hình thành, càng thư thái bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Bắt đầu ngâm nga thầm: “Po”, “Po”, “Po”, một cách từ từ, hoặc theo bất cứ tốc độ nào mà bạn cảm thấy thoải mái. 3. Sớm muộn gì, một số tư tưởng sẽ gây cản trở cho bạn. Khi bạn nhận thấy tình trạng này, hãy trở lại với công thức tụng niệm của mình, cho đến khi tư tưởng kế tiếp đến quấy rầy bạn. Một lần nữa, hãy gạt tư tưởng này sang một bên, và trở lại với công thức tụng niệm. Đôi khi, bạn có thể liếc nhìn đồng hồ để kiểm tra thời gian. 4. Đừng bận tâm nếu bạn bỏ qua công thức tụng niệm của mình trong những khoảng thời gian kéo dài liên tục, trước khi bạn nhận ra rằng tâm trí mình đang suy nghĩ mông lung. Chỉ cần trở lại với công thức tụng niệm. Chuỗi công thức tụng niệm, đến tư tưởng, đến công thức tụng niệm, đến tư tưởng, đều tự nhiên và xảy ra với tất cả mọi người. 5. Sẽ đến lúc không còn tư tưởng, không còn công thức tụng niệm nào trong tâm trí bạn nữa. Bây giờ, bạn đã vượt quá tư tưởng. Có thể mất nhiều tháng để trạng thái này xảy ra, và chỉ có thể xảy ra trong một phần
nhỏ của một giây mà thôi. Tuy nhiên, bạn đừng để cho bất cứ mối quan tâm nào quấy rầy mình. Hãy chỉ thực hành. 6. Trong khi suy niệm, có thể bạn có những kinh nghiệm khác nhau. Những ánh sáng lóe lên trong tâm trí bạn. Âm thanh vo vo trong lỗ tai bạn. Cảm giác ấm áp hoặc nặng nề, hoặc cả hai cảm giác này trong tứ chi bạn. Chúng khác biệt từ người này tới người kia. Hãy vui hưởng tất cả chúng, nhưng đừng quan tâm đến chúng, cũng đừng cố gắng đưa chúng đến. Hãy chỉ giữ công thức tụng niệm trong tâm trí bạn mà thôi. 7. Sau khoảng 10 hoặc 20 phút, thì bạn đã tự định phần cho mình, hãy ngừng lập lại công thức tụng niệm, và ngồi yên lặng trong khoảng 2 phút. Sau đó, bạn có thể đứng lên. 8. Sau một bữa ăn no, đừng suy niệm trong vòng 3 giờ. Quá trình tiêu hóa sẽ ngăn cản sự suy niệm. Đừng suy niệm ngay trước khi đi ngủ ban đêm. 9. Khi bạn rất thoải mái với lối giải thích trên đây về TM, và phương pháp này đã trở thành một bản chất thứ hai của bạn, thì bạn có thể bổ sung cách suy niệm Vipassana vào việc thực hành của mình: a. Đến cuối buổi đọc công thức tụng niệm, hãy ngồi yên lặng và chú ý đến cảm giác từ hơi thở của mình ở đầu mũi và môi trên. Hãy để cho hơi thở tự nhiên; nếu nhịp độ của nó thay đổi, cứ để mặc nó. Chỉ cố gắng giữ được cảm giác trên đầu mũi và môi trên, mặc dù yếu ớt.
b. Nếu những tư tưởng, cảm xúc, cảm giác của cơ thể khiến bạn sao lãng, hãy cứ phớt lờ chúng, và trở lại với cảm giác. Khi sự sao lãng xảy đến, hãy thầm chấp nhận nó, nếu bạn thích, bằng cách nói: “tư tưởng”, “cảm xúc”, “cảm giác của cơ thể”, như có thể đó là trường hợp này; hãy gạt bỏ nó, và tiếp tục với nhận thức về hơi thở của bạn. c. Sau một tuần nhận thức về hơi thở của mình, bạn hãy cố gắng giữ được những cảm giác mà bạn cảm thấy trên trán, trong vòng vài giây, rồi đến trên mặt, cũng trong vòng vài giây, rồi đến mũi, ngực, bàn tay, bụng, bắp đùi, cẳng chân, bàn chân. Sau đó, trở lại với đầu và lập lại thủ tục. Đồng thời, cố gắng duy trì nhận thức về hơi thở. Hãy làm như vậy trong vòng 10 phút. d. Sau một tuần, bạn hãy bắt đầu thu hút những cảm giác trên trán như trước đây, nhưng sau đó, vẫn tiếp tục bổ sung thêm những cảm giác của mặt, ngực, bụng, mà không đánh mất nhận thức về những cảm giác trên trán. Khi bạn tiến gần đến bàn chân, thì cơ thể bạn nên trở thành một khối thừa thãi những cảm giác trong vòng vài phút. Trước khi bạn kết thúc việc suy niệm, hãy tự hình dung là mình đang ôm lấy toàn bộ tạo vật, trong “sự ân cần đầy yêu thương”.
10. Bây giờ, bạn sẵn sàng cho việc đào tạo giả nghiệm. Đến cuối thủ tục của công thức tụng niệm/ Vipassana, trước khi mở mắt ra, bạn hãy hình dung một vòi hoa sen nước mát đang trút xuống cơ thể mình, và rửa sạch toàn bộ tình trạng căng thẳng của nó. Sau đó, bạn hãy tự hình dung là đang đạt được những mục đích quan trọng của mình. Nếu bạn là người hay trì hoãn quanh năm, và mong ước trở nên đúng giờ trong công việc, thì bạn hãy tự hình dung mình đang làm việc thật nhanh, trong khi bạn tự nhủ: “Khi cần làm bất cứ việc gì, thì tôi làm việc này ngay lập tức, với sự khẩn trương và hứng thú”. Hãy đặt toàn bộ trí tưởng tượng, sức mạnh tư tưởng, sự hứng thú và thôi thúc vào việc hình dung của mình. Hãy luôn luôn sử dụng sự căng thẳng hiện tại trong bất cứ điều gì bạn nói, như thể bạn đã đạt được mục đích của mình. Trong sự hình dung của bạn, hãy tự coi mình không phải như thể đang quan sát một người khác, nhưng như thể bằng chính đôi mắt của mình, bạn đang nhìn phần đó của công việc, bàn làm việc v.v..., mà bạn vẫn thường thấy. Hãy chỉ làm việc này trong vòng hai phút mà thôi. Hãy nhớ rằng đây là một phương pháp, đừng đánh giá nó là đúng hoặc sai. Không nhất thiết bạn phải tự thuyết phục mình rằng phương pháp này có hiệu quả, và hãy đấu tranh với bất cứ mối hoài nghi nào. Bạn có thể chọn những mục đích khác để đạt được trong những lãnh vực cá nhân, gia đình, tu viện, kiến thức, tài năng... -
“Tôi nhận thấy việc hút thuốc lá là một thói quen ghê tởm và cực kỳ khó chịu”.
-
“Tôi đang điều hành một công việc thành công và lợi nhuận cao”.
-
“Tôi trầm tĩnh, điềm đạm, thoải mái trong bất cứ việc gì tôi làm. Tôi tự tin, vui vẻ, đầy năng lực và hiệu quả trong bất cứ việc gì tôi làm.
Việc thực hành có thể mất nhiều ngày, tuần, hoặc tháng để tiến hành, nhưng vẫn sẽ như vậy. Bạn có thể thực hành một hoặc nhiều mục tiêu hơn, một cách liên tục, theo từng kỳ. Một số người vẫn thoải mái chỉ với một vài mục tiêu. Những người khác xử trí thậm chí tới 15 mục tiêu liên tục. Hãy cam đoan rằng bạn thực sự mong muốn một cách sâu xa, để đạt được những thay đổi này vì những lý do riêng của mình, chứ không phải để làm vui lòng người khác nào đó. Hãy chỉ thực hiện sự giả nghiệm khi bạn hoàn toàn thư giãn. 11. Bạn có thể tách việc Đào Tạo Giả Nghiệm khỏi việc thực hành suy niệm, và tiến hành vào ban đêm, ngay trước khi đi ngủ. Đừng nói với ai về những cách giả nghiệm của bạn là gì. Hãy thực hành hàng ngày, bao lâu tùy theo đòi hỏi của việc này – nhiều năm nếu cần. Sự thay đổi cuối cùng có thể xảy ra đột ngột, mà không báo trước. Có thể bạn vẫn hút thuốc lá theo tỉ lệ không hề giảm bớt, trong nhiều tháng xuyên suốt quá trình đào tạo giả nghiệm của mình. Thế rồi đột
nhiên, tâm trí bạn sẽ hiểu ra, và bạn sẽ từ bỏ thói quen này. Và theo kinh nghiệm, bạn sẽ nhận biết rằng mình sẽ không bao giờ mắc lại thói quen này nữa.
6 Phương pháp Thiền đối với việc Học hỏi
Mục đích: Để có khả năng học hỏi một cách tự nhiên, không cần nỗ lực, với sự thích thú và hứng khởi. Thời gian: Không giới hạn, trong những kỳ 10 phút. Tư thế:
Ngồi, tốt hơn nên ở tư thế suy niệm.
Thủ tục: 1. Zazen: Thiền là một môn phái Phật giáo quy định về Zazen, hoặc suy niệm trong khi ngồi, để làm lắng đọng tâm trí, và nhận ra bản chất đích thực của mình. Cách thực hành Thiền không tách biệt với cuộc sống, nhưng là một phần liên kết với cuộc sống. Để có khả năng xử lý một cách tự nhiên và hiệu quả đối với cuộc sống trong tất cả mọi khía cạnh của nó, thì người ta phải tập trung. Việc thực hành Zazen thường xuyên làm đẩy mạnh quá trình tập trung. Mặc dù cách thực hành Thiền tiên tiến nhắm
đến sự khai sáng, nhưng một số hình thức Thiền vẫn nhắm nhiều hơn đến những thành tựu hiện đại nhất. Chẳng hạn như Bompu Zen. Yasutani, bậc thầy về Thiền, nói: “Khi thoát khỏi nội dung triết lý hoặc tôn giáo, thì Bompu Zen dành cho bất cứ người nào và tất cả mọi người. Đây là một phương pháp Thiền, được thực hành thuần túy trong niềm tin rằng nó có thể cải thiện sức khỏe, cả về mặt thể lý lẫn tâm trí. Thông qua cách thực hành Bompu Zen, bạn học hỏi cách tập trung và kiểm soát tâm trí. Yasutsni bổ sung thêm: “Đối với hầu hết mọi người, không bao giờ xảy ra việc kiểm soát tâm trí của họ, và thật không may, việc đào tạo cơ bản này lại ở bên ngoài nền giáo dục đương thời, không phải là một phần của cái được gọi là cách đạt được kiến thức. Tuy nhiên, khi không kiểm soát được tâm trí, thì chúng ta thật khó giữ lại những điều mình học hỏi, bởi vì chúng ta học hỏi nó một cách không thích đáng, lãng phí năng lực trong quá trình học hỏi. Thật vậy, chúng ta thực sự bị què quặt, trừ phi chúng ta biết cách làm thế nào để kiềm chế những tư tưởng của mình, và tập trung vào tâm trí. Ngoài ra, bằng cách thực hành cách thức xuất sắc này của việc đào tạo tâm trí, bạn sẽ nhận thấy mình càng ngày càng có khả năng chống lại những chước cám dỗ mà trước đây bạn đã từng không kháng cự nổi, và cắt đứt những ràng buộc mà từ lâu đã trói buộc bạn trong cảnh nô lệ. Bởi vì sự phong phú nhân cách và việc củng cố nhân cách chắc chắn đi theo ba yếu tố cơ bản – nghĩa là trí tuệ, cảm giác và ý chí –, vẫn phát triển một cách hài hòa”.
Sau đây là thủ tục suy niệm: i/ Bạn hãy ngồi trên một cái ghế dựa, bàn chân đặt phẳng trên mặt đất, hoặc ngồi trên mặt đất, với bàn chân khoanh lại bên dưới. Giữ cho lưng thật thẳng, hai bàn tay khoanh lại, bàn tay phải ở bên trong bàn tay trái, các ngón tay cái hơi chạm nhẹ. Nên hơi cúi đầu xuống, mở hé đôi mắt, nhìn xuống, không tập trung. ii/ Hãy hít thở thật tự nhiên. Hít vào và thở ra qua mũi, bằng cách sử dụng cơ hoành. Hãy tưởng tượng rằng hơi thở của bạn đi vào và đi ra chỉ ở bên dưới rốn. Hãy đếm mỗi lần bạn hít vào, tới 10, rồi bắt đầu lại. Chú ý đến từng hơi thở. Cứ tưởng tượng bạn chính là từng hơi thở mà bạn thở. Hãy tự đồng nhất mình với hơi thở. Vẫn chăm chú vào hơi thở của mình, chú ý đến từng sự khác biệt. Đừng đấu tranh với những tư tưởng tản mạn đang phản đối. Hãy hoàn toàn để cho chúng trôi qua, mà không bị chúng quyến rũ hoặc làm cho bạn vướng mắc. Đừng cố gắng đạt được bất cứ điều gì với Zazen. Không có sự tiến bộ nào đạt được. Mục đích của việc thực hành chỉ là để thực hành. Chỉ cần đếm những hơi thở của mình. Nếu bạn quên số đếm, thì hãy bắt đầu lại. Mỗi lần, hãy suy niệm trong vòng 10 phút, mỗi ngày nhiều lần tùy bạn có thể xoay sở được, nhưng ít nhất mỗi ngày hai lần, đừng bao giờ suy niệm sau bữa ăn. Nên suy niệm cách xa bữa ăn từ 2 đến 3 giờ.
2. Mỗi lần một việc: Hãy thực hành làm mỗi lần một việc; bất cứ việc gì mà bạn làm. Nếu bạn đang viết một lá thư, hãy chỉ viết lá thư đó, bằng cách tập trung vào những điều bạn muốn nói. Đừng nghĩ đến những thứ trên lò sưởi, nơi bạn sẽ trải qua buổi tối; hoặc nghĩ đến công việc của ngày mai. Hãy làm tương tự như vậy khi bạn rửa bát đĩa, lau chùi đôi giày của mình, hoặc đi tắm. Các Bậc thầy về Thiền vẫn nói rằng: “Khi ăn, hãy chỉ ăn, khi đi bộ, hãy chỉ đi bộ”. Như một người thực hành Thiền đã ghi chú: “Hãy bắt đầu bằng cách để cho toàn bộ ngày sống của bạn trở thành một bài rèn luyện về cách tập trung, khi làm cho từng hành động đều thực hiện việc gì đáng làm. Trước hết, hãy nói với chính mình: ‘Tôi sắp tập trung vào việc (hãy nói ra) trong vòng một giờ bằng cách làm việc này, và dẹp bỏ tất cả các vấn đề khác sang một bên. Tôi sẽ làm việc này mà không nghĩ đến bản thân, nhưng bởi vì đây là việc đúng đắn cần phải làm’. Sau đó, hãy quên toàn bộ nhu cầu phải tập trung, và tiếp tục công việc, cho dù đó là việc làm bài thi, viết nháp một tài liệu, hoặc lau chùi căn phòng”. Hãy nghĩ đến các việc học hỏi như là một bài tập luyện có ý thức. Trong khi bạn định phần cho các học hỏi của mình, đừng làm việc gì khác, đừng nghĩ đến điều gì khác. Bạn sẽ nhận thấy mình sẽ ít cần đến sự cố gắng, và sẽ đạt được nhiều hứng thú hơn trong các việc học hỏi. 3. Duy trì sự thích thú và hứng khởi trong khi học hỏi: a/ Hãy thanh tẩy tâm trí bạn khỏi những sao lãng, bằng cách thực hành Zazen trong vòng 5 phút. b/ Để cho tâm
trí bạn thư giãn. Cởi mở tâm trí đối với đề tài học hỏi, và sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì mà bạn phải học hỏi, hoặc bất cứ bài tập nào ở trường mà bạn phải làm. c/ Tự chuẩn bị cho mình học hỏi một số điều đáng biết. Tập trung vào việc học hỏi bất cứ điều gì mà bạn phải học hỏi. d/ Quyết tâm thực hiện nỗ lực đúng đắn trong khoảng thời gian được sắp xếp từ trước, hoặc cho đến khi bạn hoàn tất công việc. e/ Chăm chú vào điều bạn đang học hỏi. Tập trung vào việc bạn đang làm. Nếu bạn tự nhận thấy mình bắt đầu sao lãng, hãy tống khứ những tư tưởng đang xâm nhập, và tập trung. f/ Hãy quên bản thân đi. Trở nên một với việc học hỏi của mình. 4. Tập trung lại vào tâm trí mình. a/ Nếu bạn gặp khó khăn trong việc giữ mình cách xa khỏi những tư tưởng sao lãng, hãy tưởng tượng rằng tâm trí bạn giống như một ánh sáng luôn luôn bốc cháy, và liên kết với một nguồn năng lượng vô tận. Bạn phải tập trung ánh sáng này vào đề tài học hỏi của mình. Hãy thầm di chuyển những đối tượng nào đang gây sao lãng cho sự chú ý của bạn khỏi con đường của ánh sáng, sao cho nó có thể tập trung vào vấn đề học hỏi của bạn. b/ Bạn cũng có thể tự tưởng tượng rằng mình đang ở trung tâm của một chiếc bánh xe đang quay. Khi tâm trí bạn ở ngay trung tâm, thì nó yên tĩnh và tập trung. Khi những tư tưởng khác lôi kéo nó theo những đường hướng khác, thì nó bắt đầu quay cùng với chiếc bánh xe. Như vậy hãy để cho tâm trí của bạn ở lại ngay tại trung tâm, và để cho tất cả những tư tưởng gây sao lãng di chuyển ra bên ngoài, cho đến khi chúng bị chiếc bánh xe đang quay hất đi hết.
5. Loại bỏ nỗi lo lắng của bạn. a/ Nếu bạn cảm thấy lo lắng trước các bài kiểm tra hoặc trong thời gian học hỏi, hãy thực hiện một kinkin hoặc đi bộ Zazen, nghĩa là đi với nhịp độ bình thường, và trong khi làm như vậy, bạn hãy đếm những hơi thở của mình như trong Zazen, trong vòng 5 phút. b/ Nếu trong khi học hỏi hoặc trong các bài kiểm tra, bạn cảm thấy nỗi lo lắng gia tăng, hãy hít thở thật sâu thông qua lỗ mũi, bằng cách sử dụng cơ hoành của bạn, hãy hít đầy hai phổi đến hết khả năng của chúng. Khi bạn hít vào, hãy nghĩ rằng không khí giống như một thứ chất lỏng đang nhận chìm cơ thể bạn. Khi bạn thở ra, hãy nghĩ rằng không khí đang cất đi nỗi lo lắng cách xa khỏi bạn. Lập lại bài tập này 5 hoặc 6 lần. 6. Xử lý tình trạng mất hứng thú. Khi bạn cảm thấy năng lực hoặc sự hứng thú của mình suy yếu đi, hãy tưởng tượng rằng mình đang rút ra nguồn năng lực vô hạn. Khi bạn hít vào, năng lực này tuôn đổ vào bạn. Khi bạn thở ra, thì nỗi chán ngán, mệt mỏi đổ ra. Hãy cảm thấy sức mạnh của năng lực đang đổ vào. Hãy cảm thấy được xoa dịu khỏi nỗi chán ngán và mệt mỏi, khi một đợt sóng tươi mát rửa sạch con người bạn. 7. Xử lý những cảm xúc gây cản trở: Nếu bạn thường xuyên bị tấn công bởi những nỗi lo lắng, buồn phiền và những cảm xúc khác trong ngày, gây cản trở cho việc học hỏi hoặc công việc khác của bạn, hãy chỉ định một thời gian trong ngày để xử lý chúng, và đưa chúng ra khỏi tâm trí bạn trong thời gian còn lại của ngày. Trong
thời gian được chỉ định, hãy ngầm túm lấy từng nỗi lo lắng và những cảm giác sao lãng khác, thầm gói hết chúng lại trong một cái túi và quẳng cái túi này vào ngọn lửa, canh cho cái túi này bén lửa và những nội dung của nó đều bốc cháy thành những ngọn pháo bông nhiều màu sắc. Nếu bạn thích, hãy viết ra những nỗi lo lắng và những cảm giác khác của mình trên một tờ giấy, rồi đốt hết chúng đi.
7 Biến Căng thẳng thành Năng lực
Suresh là một người đàn ông tự lập. Chẳng bao lâu sau khi học xong ở trường trung học, anh gia nhập một xí nghiệp da và quần áo với tư cách là thư ký. Anh theo đuổi việc học tại một trường cao đẳng vào buổi tối, trong khi anh vẫn học hỏi những khía cạnh khác nhau đối với việc kinh doanh của mình. Anh tiến tới nghiên cứu về quản trị, và cuối cùng anh đã thuyết phục được chủ xí nghiệp da và quần áo để đi vào lãnh vực xuất khẩu. Suresh được chỉ định làm nhà quản trị về xuất khẩu của xí nghiệp. Anh đã phát triển những người cung ứng nguyên liệu thô, đảm bảo rằng anh có được những nguyên liệu theo tiêu chuẩn quốc tế, và khai thác thị trường xuất khẩu. Việc kinh doanh gia tăng nhanh chóng. Anh phải xử lý các vấn đề của nhà cung ứng, cũng như các vấn đề của xí nghiệp, để đảm bảo rằng các khách hàng đều
nhận được phẩm chất mà họ mong đợi và trả tiền để có được. Chắc hẳn anh tự nhận thấy mình làm việc quá nhiều và bị căng thẳng khủng khiếp. Khi anh bay đi khắp thế giới, thì tình trạng mệt mỏi sau chuyến bay dài càng gây thiệt hại cho sức khỏe của anh. Anh gần như bị kiệt sức và suy sụp tinh thần. Một trong những thân chủ nhận thấy tình trạng của anh. Người đó thuyết phục anh dành ra 2 tuần nghỉ ngơi, và trải qua kỳ nghỉ này tại một cuộc hội nghị ở Davos, Thụy Sĩ. Suresh trở lại thành một con người đã biến đổi, năng lực của anh được đổi mới, sức khỏe hồi phục. Phương pháp mà anh học hỏi tại Davos được mô tả ở đây:
Biến căng thẳng thành năng lực
Mục đích: Biến đổi những sức ép công việc và những cảm xúc tiêu cực thành năng lực sảng khoái. Tư thế:
Tốt hơn nên ngồi hoặc nằm, nhưng ở đâu có thể được, thì cũng nên đứng.
Thời gian: Trong những kỳ 10 phút hoặc ít hơn.
Thủ tục: 1.
Khi bạn bị kiệt sức, nhưng không thể nghỉ ngơi ngay lập tức, hãy chọn ra một số bộ phận trong cơ thể, mà bạn cảm thấy đặc biệt đau đớn do hậu quả của tình trạng kiệt sức, và bạn mong muốn nạp lại năng lượng.
2.
Hãy co lại và thư giãn các bắp thịt của từng bộ phận trong cơ thể mà bạn đã chọn. Hãy làm như vậy theo nhịp điệu. Chọn tần số nào thoải mái nhất đối với bạn. Chậm hoặc nhanh.
3.
Khi bạn ổn định nhịp điệu của mình lúc co lại và thư giãn các nhóm bắp thịt, thì bạn hãy hồi tưởng, chứ không chỉ nhớ lại bất cứ sự kiện không thú vị nào trong ngày. Bạn sẽ cảm thấy một năng lực cảm xúc trào dâng trong cơ thể mình. Trong trí tưởng tượng, hãy hướng dẫn năng lực này vào các bắp thịt mà bạn đang co lại và thư giãn, và biến đổi nó thành hoạt động của bắp thịt.
4.
Hãy lập lại chuỗi hoạt động ở mục số 3, cho đến khi việc hồi tưởng sự kiện không thú vị không còn để lại sức mạnh để phát sinh bất cứ cảm xúc nào nữa. Bạn đã biến đổi tình trạng căng thẳng thành năng lực.
Tự đặt mình trong hoàn cảnh của người Khác Mục đích: Để tìm ra sự căng thẳng, do tình trạng xung đột giữa người với người gây ra. Tư thế:
Ngồi.
Thời gian: 10 phút.
Thủ tục: 1. Hãy chọn một thời điểm nào mà bạn tương đối rảnh rang khỏi những công việc, cảm thấy dễ chịu, thư giãn và kiểm soát được những cảm xúc của mình. 2. Tìm kiếm sự riêng tư. Sự riêng tư ở chỗ công cộng, nơi không ai biết bạn và sẽ quấy rầy bạn, như xe buýt, tàu lửa, phòng đợi sân bay. 3. Hãy nhớ lại tình trạng xung đột giữa người với người. Trải nghiệm môi trường chung quanh, lắng nghe lời mở đầu của cuộc đối thoại. Nhớ lại tình trạng này từ đầu đến cuối. Bây giờ, bạn hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Hãy tưởng tượng rằng bạn là người đó trong bất cứ khía cạnh nào. Lý luận như người đó là bạn (như thể bạn là chính người đó, không phải là bản thân bạn). Hãy quên đi bạn là ai. Trở thành người mà bạn đã từng xung đột. Tưởng tượng rằng chính mình có vẻ như đang suy nghĩ, nói chuyện, ngồi, đi lại, theo những phong cách của người đó. Hãy cảm thấy giống như người đó hoàn
toàn cảm thấy về sự kiện. Mục đích không phải là biến đổi thành quan điểm của người khác. Hãy chỉ là người đó trong vòng 10 phút. Phản ứng của bạn đối với sự kiện sẽ thay đổi. “Khi chúng ta hiểu những người khác hơn, thì họ yêu mến chúng ta nhiều hơn”.
Chơi bóng Mục đích: Giải độc những cảm giác căng thẳng của bạn. Tư thế:
Đứng trong một nơi riêng tư.
Thủ tục: 1. Hãy mua một quả bóng bằng cao su có bán tại bất cứ cửa hàng nào dành cho trẻ con. Nếu bạn mua được một quả bóng cột vào một sợi dây thì càng tốt. Nếu không, hãy cột một sợi dây, và treo quả bóng lên trần nhà, sao cho nó thòng xuống ngực bạn. 2. Nghĩ đến điều gì đó làm cho bạn tức giận, thất vọng, nản chí. Hãy đấm vào quả bóng, với ý thức rằng bạn đang đấm vào nguyên nhân khiến bạn tức giận, nản chí. 3. Kéo dài sợi dây, sao cho bạn có thể đá vào quả bóng, với cùng ý thức rằng bạn đang đá vào những sự nản chí của mình.
4. Siết chặt quả bóng, tưởng tượng rằng bạn đang thúc ép những cảm giác tiêu cực ra khỏi cơ thể mình. 5. Hãy đấm vào quả bóng, mỗi khi bạn gặp phải một sự kiện gây nản chí, cho đến khi cơn tức giận bị rút hết khỏi hệ thống của bạn.
Biến đổi Tình hình Mục đích: Tự làm cho mình trở nên nhanh nhẹn và tháo vát hơn, trong việc xử lý những tình huống khó khăn. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Những kỳ 1 phút. Thủ tục: 1. Đối với mỗi tình huống mà bạn gặp phải, hãy tự hỏi: “Tôi Có thể Làm thế nào để Sử dụng Tình huống Này?”. Hãy làm như vậy trước và sau khi gặp phải. 2. Đặt câu hỏi được viết trên những mảnh giấy tại những nơi nào mà bạn sẽ tìm thấy thường xuyên trong ngày. 3. Ghi khắc câu hỏi trong tâm trí mình, sao cho bạn sẽ nhớ được để hỏi càng thường xuyên càng tốt.
4. Đưa vào câu hỏi sự cân nhắc nghiêm túc. Bạn có thể rút ra được ích lợi gì từ một tình huống không thuận lợi? Khi bạn đặt ra câu hỏi này một cách lập đi lập lại, thì bạn sẽ bắt đầu có được những câu trả lời từ vô thức của mình, lúc bạn cần đến câu trả lời nhiều nhất. Chúng sẽ gây ngạc nhiên cho bạn, với tính hiệu quả của chúng, trong việc chuyển một tình huống bất lợi thành thuận lợi cho bạn.
Tự-Chất vấn
Mục đích: Để huấn luyện mình tự đặt câu hỏi một cách hiệu quả. Học hỏi hầu nhận ra những câu trả lời và nơi chúng phát xuất, cách làm thế nào để gợi ra câu trả lời đầy đủ thuộc về cơ quan trong người, thay vì chỉ là một câu trả lời thuộc về trí óc đối với vấn đề của bạn. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Trong những kỳ 10 phút.
Thủ tục: 1. Đặt ra mỗi lần một câu hỏi. (Những câu hỏi mẫu được đưa ra ở cuối phần thủ tục này).
2. Đặt thời hạn cho những câu hỏi và câu trả lời của mình. Viết chúng ra. 3. Cố gắng không bắt đầu câu hỏi của mình bằng từ “Tại sao”. 4. Đặt câu hỏi vào sáng sớm, khi bạn vừa thức giấc. Hãy đặt câu hỏi theo nhịp độ, trong khi đi dạo, đánh trứng, khuấy cà phê, lau nhà, lái xe đến cơ quan. Đặt câu hỏi cả khi bạn đang thư giãn. Tưởng tượng rằng bạn đang ở trên một ngọn núi; hãy ném câu hỏi lên không trung và lắng nghe tiếng vọng. Đặt câu hỏi cả khi bạn đang nghe nhạc. Đặt câu hỏi tại trạm xe buýt, trên tàu lửa, trong xe taxi, khi bạn đang chờ đợi người nào đó. Đặt câu hỏi đối với những bộ phận khác nhau của cơ thể – tóc, mặt, bàn tay, bụng, ngón chân. Sau khi thử đặt ra tất cả những câu hỏi này, và trong nhiều dịp hơn nữa, hãy phớt lờ câu hỏi nào phù hợp nhất đối với mình. Đừng cố gắng chứng tỏ bất cứ điều gì đối với câu hỏi của bạn. Hãy tự hỏi mình một cách sâu sắc trong suốt một tuần. Lắng nghe câu trả lời từ những chiều sâu nơi các cơ quan trong người bạn – cơ thể, tâm trí và tâm hồn. Nếu câu hỏi gây ngạc nhiên, gây sốc cho bạn, kích thích bạn, hãy cẩn thận theo dõi cảm xúc, mà không cố gắng xua đuổi nó đi. Câu trả lời có thể hoàn toàn bất ngờ. Đừng loại bỏ nó ngay lập tức. Có thể đó không phải là một cách đáp trả bằng lời nói. Có thể là một sự thúc đẩy để hành động, một giấc mơ, điều gì đó mà bạn hiểu rằng đang thúc đẩy trong tâm trí và trực giác mình. Bạn có thể nói rằng điều gì đó thật đáng ngạc nhiên, mà không biết nguyên nhân tại sao. Câu trả lời đích thực
sẽ chỉ rõ một sự thay đổi nơi con người bạn, hoặc hành động nào đó mà bạn phải tiến hành. Bạn sẽ dứt khoát phải nghe. Khi nào tôi làm điều tốt đẹp nhất cho bản thân? Khi nào tôi làm điều tốt đẹp nhất cho những người khác? Khi nào tôi làm điều tốt đẹp nhất cho cả hai, đồng thời cho đi và nhận lại? Người nào, thực sự hoặc tưởng tượng, gây ấn tượng nhất cho tôi trong những thời điểm khác nhau trong cuộc đời? Tôi có cố gắng để trở thành người đó không? Khi nào tôi cảm thấy rằng việc mà tôi đang làm không cần cố gắng? Và khi nào công việc đầy sự cố gắng? Khi nào thành tích của công việc mang lại cho tôi một cảm giác hạnh phúc và hài lòng? Khi nào tôi làm hoặc nói điều gì đó không giống như con người tôi? Lúc đó tôi là ai? Tại sao tôi đang cố gắng trở nên giống như người khác? Khi nào toàn thể con người thuộc về tâm trí, thể lý và cảm xúc của tôi làm việc? Khi nào tôi yêu thích bản thân và những người khác nhiều nhất? Khi nào tôi diễn tả con người thực sự của mình nhiều nhất? Mục đích tối hậu của tôi trong cuộc đời là gì? Cuộc đời mà hiện nay tôi đang sống có ý nghĩa đối với tôi không? Cuộc đời này sẽ phải như thế nào để có được ý nghĩa lớn nhất?
Xây dựng Năng lực
Mục đích: Bảo vệ và bổ sung vào mức độ năng lực của bạn. Tư thế:
Tốt hơn nên ngồi.
Thời gian: Khoảng 10 phút, lúc đầu từng bước, rồi đến 10 phút cho toàn bộ bài tập luyện.
Thủ tục: 1. Hãy ý thức về những cách diễn tả năng lực chung quanh bạn. Mặt trời đang chiếu sáng; làn gió đang thổi; những đứa trẻ đang chơi đùa; các phụ nữ đang làm việc trong nhà; điện năng mà bạn đang rút ra; năng lực bên trong cơ thể bạn. Hãy ý thức về thời gian liên kết giữa tất cả những hình thức này của năng lực: mặt trời, làn gió, điện năng, thức ăn mà các phụ nữ nấu nướng, những quyết định của con người như thế nào – tất cả chúng ảnh hưởng đến bạn, năng lực và niềm hạnh phúc của bạn ra sao. Hãy cảm thấy năng lực. 2. Hãy nhớ lại một hoặc nhiều cơ hội, khi bạn cảm thấy năng lực của mình trào dâng lên: khi bạn nghe được một mẩu tin vui; khi bạn ăn món gì đó mà bạn thích; khi bạn sắp đạt được một thành quả quan trọng và cần có năng lực để hoàn tất nó; khi bạn thoát khỏi
những nỗi lo lắng và cảm thấy đồng cảm với thiên nhiên, hoặc các bạn bè hoặc bạn đời của mình. Đừng chỉ suy nghĩ; hãy cảm thấy năng lực. 3. Hãy nhớ lại hậu quả của năng lực có hại; khi bạn bị đánh trong thời thơ ấu hoặc sau này; khi bạn hoặc người khác nào đó bị một người khác hoặc một chiếc xe hơi gây thương tích trong một vụ tai nạn; khi bạn bị thiệt hại trong một vụ lũ lụt, nổi loạn, hỏa hoạn v.v... Đừng chỉ nhớ lại; hãy cảm nhận những tác động thiệt hại của năng lực này một cách đầy đủ hết sức có thể được. 4. Lần lượt ý thức về năng lực sáng tạo và có hại vài lần. 5. Mỗi ngày, hãy cảm nhận năng lực không thuộc về con người được mô tả trong số 1. Đồng thời, cảm nhận những năng lực sáng tạo và có hại, và tự cảm thấy mình đang trôi nổi trên cả ba loại năng lực đó. Thủ tục này sẽ dạy cho bạn biết kiểm soát năng lực bên trong của mình và năng lực bên ngoài đang ảnh hưởng đến bạn.
Trôi nổi với Dòng nước
Mục đích: Để có khả năng đối phó với những tình huống mà bạn không thể kiểm soát được. Thời gian: 10 phút. Tư thế:
Ngồi.
Thủ tục: 1. Hãy nhắm mắt lại. Tưởng tượng một dòng sông yên bình đang trôi nổi êm đềm. Tưởng tượng là mình đang trôi nổi trên đó, một cách êm ả, với sự thoải mái. Dòng sông đưa bạn đến với dòng suối. Bạn không chịu trách nhiệm. Dòng sông làm toàn bộ công việc này. 2. Hãy nhớ lại một sự kiện mà bạn phải làm điều gì đó ngược lại với những mong ước của mình. Nhớ lại những cảm giác, sự chống đối và đề kháng của mình, và cả tình trạng không có sức mạnh để phản kháng. 3. Hãy trôi nổi lại xuôi theo dòng sông. Khi bạn trôi nổi, hãy nhớ lại sự kiện trong số 2. Đừng chống lại những cảm giác phản kháng hoặc tức giận. Chỉ xô đẩy chúng sang một bên của dòng sông, khi bạn trôi nổi một cách yên bình. Thủ tục này sẽ dạy cho bạn không
lãng phí năng lực trong việc đấu tranh với những điều mà bạn không thể phản kháng được.
Thoát khỏi Tính Nhút nhát
Mục đích: Loại bỏ sự cẩn thận thái quá trong cuộc sống của bạn. Thời gian: 10 phút. Tư thế:
Tốt hơn nên ngồi.
Thủ tục: 1. Hãy làm một bản danh sách những việc mà bạn cảm thấy thiếu tự tin để tiến hành. Nguyên nhân của tính nhút nhát nơi bạn là gì? Phải chăng bạn không thể nghĩ đến những người ít có khả năng hơn mình, nhưng họ vẫn đang làm những việc đó một cách thành công. 2. Khi nghĩ đến lúc thực hiện những việc mà bạn cảm thấy nhút nhát, bạn đang cảm thấy những phần nào trên cơ thể mình căng thẳng hoặc không thoải mái? Hãy làm cho chúng căng thẳng thêm, rồi lại làm nhẹ bớt đi. Thực hiện cách này vài lần.
3. Hãy tưởng tượng rằng mình đang đứng bên dưới một thác nước, và dòng nước mát tiếp sinh lực đang tuôn đổ trên bạn. Khi bạn cảm thấy nhút nhát, hãy siết chặt các bắp thịt và cơ quan nào của cơ thể mà bạn đang cảm thấy căng thẳng hoặc không thoải mái. Tưởng tượng rằng tính nhút nhát đang tan dần và được làn nước từ dòng suối rửa sạch. Hãy cảm thấy chính mình đang nổi lên đầy sự tự tin và nguồn lực. Hãy lập lại thủ tục này bất cứ khi nào bạn cảm thấy cần.
Loại bỏ những Cản trở đối với Thành tích
Mục đích: Để loại bỏ những hạn chế về tâm trí, gây cản trở cho những khả năng tự nhiên của bạn, và cho phép chúng triển nở đầy đủ. Thời gian: 10 phút. Tư thế:
Không quan trọng.
Thủ tục: 1. Hãy nghĩ đến những thành công của bạn càng nhiều càng tốt. Phân tích những thất bại, rút ra bài học từ chúng, và quên chúng đi. 2. Nghĩ đến những thành công của bạn vào cuối ngày, trước khi đi ngủ. Điều này sẽ có một tác động gia tăng đối với vô thức, và đối với thành tích của ngày hôm sau. 3. Xây dựng lòng tự trọng đối với nhóm của bạn, bằng bất cứ cách nào có thể được, bằng cách nhấn mạnh đến những thành công nhỏ bé nhất, trong các mối quan hệ mà bạn thực hiện đối với những người bên ngoài về việc này. 4. Xây dựng lòng tự trọng đối với các nhân vật quan trọng và gần gũi với bạn – cấp trên, con cái, đồng nghiệp, khách hàng, bạn đời – ghi lại sự đánh giá cao của bạn về họ: làm cho họ yêu thích bản thân hơn. 5. Sử dụng một ngôn ngữ làm cho bạn cảm thấy thoải mái đối với trách nhiệm. Sử dụng những cách diễn tả như: “Tôi muốn...”, “Tôi sắp...”, “Tôi đã quyết định...”. Tránh ngôn ngữ của những người cảm thấy không thoải mái với những quyết định: “Tôi phải thức dậy...”, “Tôi phải đi....”, như thể họ không kiểm soát được những hành động của mình. 6. Lập ra một cơ cấu mục tiêu cho bản thân. Cơ cấu mục tiêu cần thiết cho sự sống còn của bất cứ hệ thống nào, kể cả con người. Chúng ta có một bộ điều
hòa đạt hiệu quả trong hệ thống của mình, tùy thuộc vào cách chúng ta tự nhìn mình như thế nào, với sự kính trọng đối với những người khác chung quanh. Bộ điều hòa này nói với chúng ta: “Tôi có khả năng kiếm được... mỗi tháng”. Chúng ta có khuynh hướng tự đánh giá thấp mình, và bộ điều hòa kiềm chế chúng ta ở một mức độ thấp hơn khả năng chúng ta đạt được. Khi bạn lập ra những mục tiêu, hãy quân bình với những mục tiêu cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và cộng đồng. Hãy nhắm đến đủ cao, nhưng đừng quá cao. Hãy để cho những mục tiêu ở trong tầm tay, nhưng không ở trong quyền hạn của bạn. Hãy cụ thể và chi tiết, đừng mơ hồ. Đừng tạo ra một khung thời gian để đạt được chúng, thay vào đó, hãy diễn đạt chúng trong thì hiện tại: “Tôi đang kiếm được...”, “Tôi đang chuẩn bị một chuyến đi chơi suốt tháng cho cả gia đình tôi”, “Tôi đang học hỏi cách sử dụng máy tính, để thức dậy đúng giờ thông tin cho cơ quan”, “Tôi đang dành ra mỗi tuần một giờ cho hội phát triển nhà ở”. Hãy giữ cho những mục tiêu của mình đáng tin cậy, chỉ bàn bạc về chúng với những người trực tiếp quan tâm đến việc đạt tới và có được chúng: Điều này sẽ tránh được tình trạng đố kỵ và làm hại sau lưng. 7. Hãy sử dụng trí tưởng tượng một cách xây dựng. Chúng ta có khuynh hướng phản đối việc di chuyển vào lãnh vực không quen thuộc, bởi vì lúc đó, chúng ta di chuyển ra khỏi khu vực thoải mái đối với bản thân, nơi chúng ta được đặt vào vị trí hiện tại. Người ta có khuynh hướng di chuyển hướng tới khu vực thoải mái đối với họ, hoặc tạo thành khu vực trong
bất cứ tình huống nào họ tình cờ ở đó. Bằng cách liên tục suy nghĩ đến những mục tiêu của mình, chúng ta trở nên thoải mái đối với chúng, và giải thoát những tiềm năng của bản thân để đạt được chúng. 8. Hãy liên kết với những người biết cách làm thế nào để thực hiện lối Suy nghĩ Tích cực. Tại sao việc này đạt hiệu quả đối với một số người, và lại không đạt hiệu quả đối với những người khác? Nó đạt hiệu quả đối với những người cảm nhận nó bằng toàn bộ con người của họ, đặc biệt trong trí tưởng tượng, thay vì chỉ bằng lời nói. Nếu bạn cảm nhận rằng mình có một trí nhớ đáng tin cậy hơn, thì bạn sẽ làm được tốt hơn nhiều, so với việc nếu bạn chỉ lập lại không ngừng: “Tôi có một trí nhớ tốt”. Hãy cảm nhận điều này không phải với tư cách là một khán giả, nhưng nơi chính mình. Khi bạn cảm nghiệm điều gì đó trong trí tưởng tượng, thì chắc chắn điều đó trở thành sự tự nhận thức về bản thân. Bạn không cần phải tin tưởng vào điều đó. Hãy chỉ cảm nghiệm trong trí tưởng tượng về thái độ mà bạn muốn đạt được. Cũng không cần có một mong ước cháy bỏng. Khi lập ra những mục tiêu, bạn hãy tự hỏi những câu hỏi sau đây: a. Tôi có bất cứ tiềm năng nào trong lãnh vực này không – một khoảng cách giữa điều tôi là và điều có thể xảy ra? Hãy thẳng thắn đối diện với câu hỏi này và trả lời nó.
b. Khi sử dụng tiềm năng này, phải chăng sẽ có lợi cho tôi? c. Tôi cần có loại thông tin nào để đạt được mục tiêu của mình? d. Tôi có thể sử dụng cảm xúc phù hợp – hứng thú – vào mục tiêu của mình không? e. Nếu bạn muốn làm điều gì đó tốt hơn, hãy thực hành điều đó trong đầu bạn. Cách thức tốt nhất để học hỏi một ngôn ngữ mới là suy nghĩ bằng chính ngôn ngữ đó, ngay khi bạn đã đạt được một vốn từ phải chăng. 9. Bạn cảm thấy thế nào về những khả năng sáng tạo của mình? Cảm xúc tạo thuận lợi hoặc hạn chế tiềm năng sáng tạo của bạn? Bạn nhìn vào cuộc đời như là hàng loạt những cơ hội hoặc vấn đề? Có thể theo dõi được nhiều khó khăn do tình trạng bất hòa trong quan hệ. Nếu bạn hoàn toàn nhận trách nhiệm về việc tự làm cho mình được hiểu biết đầy đủ, cũng như hoàn toàn hiểu biết về những điều đang được truyền đạt cho bạn, thì hầu hết các vấn đề của bạn đều sẽ được giải quyết. Sau khi đưa ra lời phát biểu, hãy hỏi: “Bạn hiểu được gì từ những điều mà tôi đã nói?”. Diễn đạt lại những điều đã được truyền đạt cho bạn, và kiểm tra xem có phải đó là ý nghĩa của điều này không. Mối quan hệ đích thực phát xuất từ sự đồng cảm. Sự đồng cảm với người khác liên quan đến việc:
a. Nhận ra rằng quan điểm của người khác có thể khác biệt với quan điểm của bạn. b. Hiểu biết về mặt cảm xúc rằng thật hoàn toàn đúng đắn khi bạn là bạn, và tôi là tôi. Làm thế nào mà tôi có thể làm cho bạn thậm chí lại càng nhiều hơn cả bạn được? c. Thực sự mong muốn hiểu biết quan điểm của những người khác. 10. Đến mức độ bạn nghĩ đến những kết quả tích cực khi áp lực đè nặng lên, thì chắc hẳn những kết quả đều tích cực; và ngược lại. Lần tới, khi bạn đang chịu áp lực, hãy tự hỏi: Tôi có thể tự lập trình lại cho mình, để nhìn vào những khía cạnh tích cực của tình thế không? Hãy tìm ra sự thỏa mãn trong bất cứ việc gì bạn làm. Không người thành công nào làm việc chỉ để sống.
8 Một Chiến lược đối với Cuộc sống
Mukund là con trai của một giáo viên, nên anh cũng dạy học như một công việc thuộc về truyền thống trong gia đình mình, mặc dù hoài bão của anh là nghiên cứu. Sau khi đạt được một trình độ về khoa học và văn bằng sư phạm, anh dạy học tại một thị trấn nhỏ. Anh kết hôn với Kumud, một thiếu nữ cũng xuất thân từ một gia đình chính thống. Mặc dù thông minh và có giáo dục, nhưng gia đình chị vẫn quy định rằng chị không nên đi làm. Hai vợ chồng chị sống chung với cha mẹ của Mukund. Dường như thể cuộc sống của họ sẽ nhàm chán. Nhưng một ngày kia, trường của Mukund có được một vị Hiệu trưởng có sáng kiến tài trợ chi phí cho Mukund tham gia một chương trình vào cuối tuần, do ban Đào tạo Hội nghị Chuyên đề Erhard (EST) tổ chức.
Sau này, anh mô tả tác động của hội nghị này đối với bản thân mình là “Biến đổi”. Anh đã đầu tư một số tiền tiết kiệm của mình vào khóa đào tạo kéo dài 60 giờ, để anh và vợ anh tham gia chung. Và họ cùng nhau quyết định rằng họ muốn có một cuộc sống hoàn toàn thay đổi cho chính họ. Anh ghi danh vào một khóa học Cử nhân Quản trị Kinh doanh bán thời gian trong khi anh vẫn dạy học, và động viên vợ anh cũng ghi danh, bất kể học phí cao. Chẳng bao lâu sau khi tốt nghiệp, họ có thể kiếm được công việc trong ngành, anh ở ngành tiếp thị, chị ở ngành nhân sự. Trong khi làm việc, anh lại ghi danh học Thạc sĩ khoa học, do công ty tài trợ. Đến cuối thời gian học này, anh còn thuyết phục nhà quản trị của anh khởi sự Bộ phận Nghiên cứu & Phát triển mà anh đứng đầu. Chẳng bao lâu sau, anh đã đạt được phần thưởng về những sáng kiến và anh đang đăng ký bằng sáng chế, công ty anh vẫn được hưởng lợi từ những tài năng của anh. Hiện nay, Kumud cũng đứng đầu bộ phận của mình, và đã thành công trong việc thiết lập những mối quan hệ rất thân ái giữa chủ và thợ, dựa trên một cơ sở đã trở thành kiểu mẫu cho nhiều công ty khác. Hai vợ chồng anh gặp phải nhiều phản đối trong gia đình họ, nhưng họ vẫn chứng tỏ tính độc lập của mình, bằng cách phản kháng lại sức ép đối với họ. Mukund được công ty cấp nhà ở, và họ đã dọn nhà. Tất cả bạn bè của họ đều ngạc nhiên trước sự biến đổi so với con người trước đây của họ. Vì ích lợi của hai vợ chồng, và vì chương trình đào tạo do Kumud tổ chức trong công ty của chị, nên họ đã tóm tắt cơ sở đối với sự biến đổi của mình, thông qua những gì họ đã học hỏi từ EST và từ kinh nghiệm riêng:
Sau đây là bản tóm tắt: Đến với những Mối quan hệ trong Cuộc sống
Mục đích: Để làm sáng tỏ mục đích của chúng ta trong cuộc đời, và loại bỏ những trở ngại đối với thành tích của cuộc sống. Tư thế:
Không quan trọng.
Thời gian: Có thể học hỏi trong thời gian ngắn 10 phút, và phải áp dụng cho những sinh hoạt của mọi người.
Thủ tục: 1. Cuộc đời là một chiến lược mà bạn phải chấp nhận đầy đủ trách nhiệm, nếu bạn phải chiến thắng nó. Điều này dựa trên những thỏa thuận mà bạn thực hiện với bất cứ người nào bạn tương tác với, và dựa trên những chọn lựa mà bạn chịu trách nhiệm. Những thỏa thuận đều được tiến hành một cách tự do, và bạn phải tiến hành những thỏa thuận vì lợi ích của mình. Không có lý do gì để phải tiến hành những thỏa thuận nào không vì lợi ích của mình. Đừng tiến hành những thỏa thuận chỉ vì bạn không có chọn lựa. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn rằng bạn có nhiều chọn lựa vô tận, nếu bạn nhận trách nhiệm đối với những hậu quả.
2. Hãy xem xét cuộc đời bạn trong tình hình hiện nay của nó. Bạn có thỏa mãn với cách thức cuộc đời đang tiếp diễn không? Hoặc phải chăng bạn đang than phiền về cách thức những lợi thế bị so sánh chống lại bạn? Phải chăng điệp khúc của bạn là cuộc đời thật bất công? Rằng bạn đã từng bị đối xử không công bằng? Rằng bạn không được dành cho cơ hội để thành công, vì bất cứ lý do gì? Bạn có căm phẫn về tình trạng bất công của toàn bộ điều này không? 3. Bạn phải quyết định xem có phải mình sẽ tiếp tục than phiền và đánh mất tất cả những kế hoạch của cuộc đời hay không, hoặc có phải bạn sẽ quên đi việc tự đổ lỗi cho mình hoặc bất cứ người nào khác, và tiếp tục đạt được tất cả những điều bạn mong muốn hay không. 4. Cách thức để đạt được những điều ấy là bắt đầu thực hiện những quy tắc riêng của mình. Cho đến nay, có lẽ hầu như bạn vẫn đi theo những quy tắc cuộc sống do người khác nào đó áp đặt lên bạn. Những quy tắc về sở thích, thái độ, niềm tin đều do nền văn hóa, các tổ tiên, gia đình, những thói quen của bạn áp đặt. Có thể bạn không bao giờ xem xét tại sao bạn đang làm bất cứ việc gì mình đang làm; cho dù bạn có muốn làm việc này hay không; và nếu không, thì tại sao bạn không nên chấm dứt làm việc này. Bạn đang giới hạn những chọn lựa của mình một cách vô thức, bằng cách tưởng tượng ra những hậu quả rất tồi tệ của việc loại bỏ những quy tắc nào phải đi theo mà không vì lợi ích của mình, giữ những thỏa thuận không vì lợi ích của mình, nhưng bạn vẫn chấp nhận, bởi vì bạn
tin rằng mình không có chọn lựa nào, ngoại trừ chấp nhận chúng. Có phải bạn đang đi theo những chỉ thị như: “Bạn phải đi theo truyền thống gia đình”, “Đừng ra khỏi pháp (Phật giáo) của bạn”, “Mọi phụ nữ trong gia đình chúng ta đều đã làm điều này, và bạn cũng phải làm như vậy”? Phải chăng bạn đang chèo chống lại với khuynh hướng thuộc về sở thích riêng của mình và không đi đến đâu, hoặc phải chăng bạn đang đi cùng với làn sóng của những tài lực và khả năng riêng của mình trong cuộc đời? 5. Nếu bạn đang chèo chống lại với khuynh hướng của mình, thì cuộc đời sẽ không hoạt động cho bạn. Bạn có thể nói như thế nào, khi tự hỏi xem mình có quản lý được cuộc đời mình không? Bạn có hài lòng với 95% trong số bất cứ việc gì bạn đang làm không? Hoặc phải chăng bạn đang chấp nhận 95% này như là cái giá không vui, để đạt được 5% những điều bạn vui hưởng: thu nhập, địa vị, sự thoải mái..., hoặc thậm chí có thể không phải là những điều này? 6. Sau đây là cách chúng ta làm thế nào để điều hành cuộc đời mình. Tâm trí chúng ta giống như những cuộn băng video vẫn ghi lại toàn bộ quá khứ, và quay lại cuộn băng này vô số lần, để chúng ta “học hỏi” từ những “sai lầm” và không lập lại chúng. Tâm trí nói với chúng ta rằng miễn là chúng ta tiếp tục lập lại những việc chúng ta đã từng thực hiện một cách “thành công” trong quá khứ, thì chúng ta sẽ sống còn. Nếu không, thì sự sống còn của chúng ta bị đe dọa. Bạn hãy kiên định, tâm trí nói rằng hãy trung thành
với những truyền thống của gia đình vốn đã được thời gian thử nghiệm, và bạn sẽ được an toàn. Bạn đi theo những chỉ thị, bạn làm những điều đúng đắn, nhưng những phần thưởng lại không đến với bạn, bởi vì cuộc đời vẫn đang mãi mãi thay đổi, và bạn không thể áp dụng những quy tắc cũ. Vì thế, bạn bắt đầu than phiền: “Tôi đã làm những điều đúng đắn, nhưng tôi vẫn không được thăng tiến, tôi đã sai lầm”. Nhưng than phiền không phải là một cách thay thế cho việc điều hành cuộc đời mình. Và than phiền là toàn bộ việc mà bạn sẽ làm, cho đến khi bạn quyết định ngưng nhìn lại phía sau, vứt bỏ cuộn băng của mình, và nhìn về phía trước tới nơi mà bạn muốn đi. Hãy nhận xét về cuộn băng cuộc đời mình, một cách phê bình và chân thật, trước khi bạn vứt bỏ chúng. Hãy cẩn thận nhìn vào cuộc đời mình. Cuộc đời có mang lại cho bạn những điều bạn mong muốn bên ngoài cuộc sống không? Hay phải chăng những chiến lược thu băng để đạt được những điều bạn mong muốn đều sai trái? Hãy đứng cách xa với quá khứ của bạn và xem xét nó. Bạn không phải là quá khứ của mình. Bạn là bạn, và có thể tạo ra tương lai bằng những điều bạn mong muốn. Nhưng trước đó, bạn phải dẹp bỏ những sức ép từ quá khứ, nỗi sợ hãi rằng nếu bạn đi xa khỏi những quy tắc của nó, thì bạn sẽ gặp một kết thúc thảm hại. Nếu bạn đối diện với quá khứ một cách chân thành, thì bạn sẽ được giải thoát khỏi quá khứ. 7. Điều mà bạn đang tìm kiếm chính là những kết quả, không có lý do chính đáng để thất bại, đây là điều mà
cho đến nay, hầu hết chúng ta đều có thể tạo ra. Khi bạn đạt được những kết quả mong muốn, thì sẽ không ai hỏi bạn tại sao bạn đạt được chúng. Để đạt được kết quả, bạn hãy hoàn toàn thay đổi, hãy nhìn lên phía trước, đừng nhìn lại phía sau, và mọi sự sẽ trở nên dễ dàng, giống như khi bạn trôi nổi cùng với dòng nước của một con sông. 8. Điều kiện đầu tiên để nhìn lên phía trước và quên đi quá khứ, đó là chấp nhận quá khứ mà không e dè. Bạn không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Đừng lãng phí thời gian để khiển trách quá khứ. Đừng để cho sự dày dạn đối với quá khứ kềm hãm sự tiến bộ của bạn. Đừng cố gắng sửa chữa những sai lầm của quá khứ, bằng những tư tưởng vô ích của sự trả thù hoặc tiếc nuối. Hãy lắng đọng chúng trong quá khứ không thể đảo ngược được, quên chúng đi, nhìn lên phía trước, và tiếp tục làm những điều bạn mong muốn. 9. Điều kiện thứ hai để nhìn lên phía trước và chuyển động hướng tới, đó là sau khi hoàn toàn chấp nhận quá khứ, hãy chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm đối với bất cứ việc gì bạn làm hoặc xảy đến với bạn. Đừng tìm kiếm lý do bào chữa cho những thất bại. Bất cứ điều gì xảy ra, đều đã xảy ra rồi – đó hoàn toàn là trách nhiệm của bạn, không ngoại lệ, ngay cả nếu tâm trí bạn nói với bạn rằng người khác nào đó đã phá hoại thành công của bạn. Cách lý luận thật đơn giản: hoặc là bạn hoàn toàn chấp nhận trách nhiệm, mà không bào chữa và ngoại lệ, đối với bất cứ điều gì xảy đến trong cuộc đời; hoặc là bạn để cho
những người khác điều hành cuộc đời mình. Đây là vấn đề về thái độ. Nếu bạn chỉ đạo cuộc đời mình, thì bạn hoàn toàn nhận trách nhiệm. Lúc nào bạn từ bỏ trách nhiệm, thì bạn đánh mất quyền chỉ đạo. Đó là điều không thể tránh được. Hãy trải nghiệm thái độ hoàn toàn nhận trách nhiệm, và bạn sẽ nhận thấy mình có thể dễ dàng mang được sức nặng của cuộc đời. Nếu điều gì đó sai trái, hãy tự hỏi: “Tại sao tôi lại làm điều này đối với chính mình?”, chứ không phải là: “Tại sao điều này phải xảy đến cho tôi?”. Hãy thực hiện điều này, và sau sự phản kháng ban đầu, bạn sẽ nhận thấy mình sẵn sàng hơn, và có khả năng hoàn toàn nhận trách nhiệm đối với cuộc đời mình. Hãy hoàn toàn thử điều này trong một khoảng thời gian một cách chân thành và trung thực, bất kể những cách bào chữa. Khi bạn hoàn toàn nhận trách nhiệm đối với cuộc đời mình, thì hai câu hỏi sẽ nổi lên trong tâm trí bạn: “Tôi là ai?” và “Tôi sẽ đi đâu?”. Trước đây, bạn là một con người máy móc, đã từng từ bỏ quyền quản lý, và điều này khiến bạn không có ý thức để hỏi xem mình là ai, bởi vì bạn không là ai cả, và việc bạn sẽ đi đến đâu không hề tạo ra sự khác biệt. Bây giờ, những câu trả lời sẽ là: “Tôi là người chọn để trở thành”, “Tôi sẽ đi tới nơi mà tôi chọn để đi – và tôi có những chọn lựa bất tận”. 10. Một nguyên tắc chỉ đạo chủ yếu để làm cho cuộc đời của bạn hoạt động, đó là từ bỏ thói tự cho mình là đúng đắn và những người khác là sai trái. Hãy toàn
tâm toàn ý thực hiện điều này. Cứ để cho người khác đúng đắn. Hãy chấp nhận những nhu cầu của họ; đừng phủ nhận chúng. Chỉ nêu lên những nhu cầu của mình là gì, rằng chúng khác biệt, và bạn đang tiến hành công việc làm cho cuộc đời của mình hoạt động, chứ không phải là những người khác. Khi bạn đối đầu với một người khác, trước hết, hãy nhận ra rằng người đó có những quy tắc riêng của họ, rồi sau đó, hãy nêu lên những nhu cầu của mình một cách thẳng thắn và rõ rệt, và hỏi người đó xem có thể làm gì trong tình huống này. Trong nhiều trường hợp áp đảo, người đó sẽ tìm thấy một cách thức để thực hiện điều mà bạn cần, ngay cả bằng cách khuất phục những quy tắc của họ, chỉ vì bạn đã chấp nhận người đó và những quy tắc riêng của họ. Tốt nhất, hãy luôn luôn nên tự đặt mình vào trường hợp của người khác, khi bạn đối đầu với họ hoặc họ đối đầu với bạn. Thế rồi bạn đối xử với người đó mà không cho là họ sai trái, nhưng hãy nêu lên vấn đề của mình. Kết quả là hầu hết các vấn đề của bạn với người đó sẽ tan biến. Bạn sẽ được coi như là thẳng thắn, cởi mở, và người đó sẽ cởi mở với bạn. Họ sẽ nhận ra ý muốn của bạn qua điều bạn nói; khi người ta không mặc cả, thì sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian mà hiện nay đang bị lãng phí, trong việc đấm bóng để đạt được những lời lẽ hay nhất trong bất cứ quan hệ tương tác nào. Như vậy, trong bất cứ sự đối đầu nào, khi bạn đưa ra một lời đề nghị mà bị khước từ, hoặc người nào đó đưa ra một đòi hỏi mà bạn quyết định không thỏa mãn họ, thì bạn hãy bắt đầu bằng cách nói rằng: “Vâng, tôi hiểu điều
này. Đó đúng là một vấn đề. Vấn đề của tôi là...” và lập lại lời đề nghị hoặc nêu lên sự phản đối của mình một cách có mức độ, chân thành. Hãy duy trì sự tương tác ở mức độ đó. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận thấy rằng mặc dù người ta có cả một bản danh sách về các vấn đề bất tận riêng của họ, nhưng họ vẫn sẽ giải quyết vấn đề của bạn, nếu bạn trình bày vấn đề của mình theo cách đó, và nếu có thể tìm được một lối thoát. 11. Có thể bạn quá quen thuộc với việc có một số người khác chỉ đạo cuộc sống mình, đến nỗi câu hỏi “Tôi đang đi đâu” rồi sẽ nổi lên, có thể gây bối rối cho bạn. Có thể bạn không có ý kiến gì về việc mình muốn đi đâu. Để tìm được nơi mình sẽ đến, thì bạn phải khám phá mình phát xuất từ đâu. Câu trả lời là: từ chính chiều sâu của bản thể bạn. Và điều đó là gì? Để tìm được điều đó, thì bạn sẽ phải làm bài tập luyện sau đây: Hãy ngồi tại một nơi thoải mái và nhắm mắt lại. Đừng khoanh tay. Cứ để cho chúng buông thõng thật tự do, thư giãn. Cũng để cho hai cẳng chân của bạn thư giãn, nhưng đừng nằm xuống. Nếu nằm, thì bạn sẽ có cơ hội buồn ngủ. Hãy hướng sự chú ý vào bên trong, và tập trung vào những điều đang diễn ra trong cơ thể và tâm trí mình. Một cách tưởng tượng, hãy đi vào bên trong bàn chân, cẳng chân, bắp đùi, mông, bụng, ngực, mặt, đầu của mình. Hãy chỉ quan sát khắp hình ảnh đến với tâm trí mình, mà không băn khoăn về vị trí của từng cơ quan mà bạn đang thăm dò. Hãy cảm thấy sự căng thẳng trong những khu vực khác nhau của cổ và đầu bạn. Hãy kéo căng chúng thêm rồi thả lỏng, như vậy chúng
mới thư giãn. Hãy kéo căng hai hàm rồi thả lỏng. Cũng thư giãn cả cái lưỡi nữa. Bạn có bất cứ cảm giác đau đớn hoặc nhức nhối nào trong cơ thể mình không? Hãy thăm dò chúng bằng tâm trí mình. Mỗi cảm giác không thoải mái mang màu sắc gì? Bạn cảm thấy thế nào về tình trạng không thoải mái? Thái độ của bạn đối với tình trạng này là gì? Quá khứ của bạn có ảnh hưởng đến tình trạng này không? Hãy xuyên suốt kinh nghiệm này vào lúc rảnh rỗi. Nếu bạn cảm thấy thích, hãy dành ra nửa giờ hoặc hơn. Bạn đang thăm dò chiều sâu của bản thể mình. Hãy thường xuyên giữ mối quan hệ với chiều sâu của bản thể mình, nghĩa là mỗi ngày một lần. Khi bạn thực hiện việc này, thì bạn sẽ biết được điều gì đúng đắn đối với mình và điều gì không, điều gì bạn có thể làm và điều gì bạn không thể làm. Đó là một khả năng đáng kể – đơn giản bằng cách nhìn vào một tình huống mà bạn sẽ nhận biết mình có thể làm được hay không. Khi bạn có thể và quyết định làm điều đó, thì bạn sẽ tiến hành. Nếu không, thì bạn sẽ lãng phí thì giờ một cách vô ích, khi cứ cố gắng làm điều gì đó mà bạn biết rằng mình không thể làm được. 12. Bây giờ, hãy nhìn vào cuộc đời mình, dành ra nhiều thời gian theo như cần thiết để làm việc này. Hãy nhìn vào những việc mà bạn biết rằng mình có thể làm, và nhận ra rằng quá trình làm việc này không cần cố gắng. Toàn bộ điều mà bạn cần có là thời gian và không gian. Hãy xuyên suốt tâm trí một số hình ảnh về những điều mà bạn có thể quyết định tiến hành.
Điều này ngược lại với việc cố gắng làm điều gì đó. Việc cố gắng bao hàm sự phản kháng, và chèo chống lại khuynh hướng. Bạn đang cố gắng, bởi vì người khác nào đó đang ép buộc bạn làm điều gì đó mà bạn vẫn phản kháng. Đó là một cách đưa đến thất bại. Hoặc là bạn quyết định làm điều gì đó, hoặc là bạn không làm điều này. Nhưng đừng cố gắng. Đó là chiến lược để đạt được. Khi bạn quyết định làm điều gì đó, thì bạn tìm kiếm thời gian, năng lực mà bạn sẽ không tìm kiếm đối với những điều bạn đang cố gắng để làm, vốn ngược lại với bản chất của mình. Bạn là nguồn gốc của năng lực đó hoặc bạn thiếu năng lực. Bạn quyết định làm điều gì đó, hoặc bạn quyết định không làm điều này. Trách nhiệm hoàn toàn thuộc về bạn. Nếu bạn quyết định kiếm tiền, thì bạn sẽ thực hiện quyết định này, mà không cần cố gắng, bằng cách làm những điều đúng đắn. 13. Sau đây là một cách tập luyện khác. Hãy cứ ở bên trong chiều sâu của bạn giống như trước đây, và quẳng đi tất cả những tàn tích từ quá khứ. Hãy khai thông một không gian cho hiện tại. Để cho chiều sâu của bản thể bạn trở nên trong sáng như tấm kính. Cơ thể bạn là một cái thùng đựng trong suốt. Hãy quan sát nó từ tất cả mọi phía, bên trong cũng như bên ngoài. Trong trí tưởng tượng, hãy để cho cơ thể sáng sủatrong suốt của bạn đầy ắp một thứ chất lỏng ấm áp
màu cam. Từ hai bàn chân bạn trở lên. Khi cơ thể bạn đã hoàn toàn đầy ắp, hãy thầm thọc tay vào cơ thể bạn, thăm dò nó, như thể nó lên tới tận đầu bạn, và chăm chú nhìn qua đôi mắt bạn. Cơ thể bạn có hai bộ van, giống như những chiếc khóa, tại các đầu ngón tay và ngón chân của bạn. Hãy mở chúng ra, để chất lỏng màu cam tuôn chảy ra hoàn toàn rửa sạch bạn. Bây giờ, hãy trở lại với chiều sâu nội tâm của bạn, và chú ý xem bạn sạch sẽ như thế nào ở tận cốt lõi của bản thể bạn. Bây giờ, bạn sắp đưa cốt lõi của bản thể mình đến một nơi hoàn toàn thoải mái. Đây là một nơi mà trước đây không ai đã từng có được. Có thể đó là một khu nghỉ mát ở bãi biển, núi, hồ, rừng – bất cứ chỗ nào phù hợp với bạn. Hãy xây dựng một phân xưởng ở đó, bằng những vật liệu nào bạn ưa thích nhất – gỗ, ximăng, nhựa, hoặc bất cứ vật liệu độc đáo nào tùy thích. Hãy xây dựng những bức tường và đồ trang bị, thử đặt những cánh cửa, thảm sàn nhà bằng một vật liệu theo sở thích của bạn. Hãy đặt một cái bàn làm việc và điện thoại ở chỗ nào để bạn có thể gọi cho bất cứ ai trên thế giới, vào bất cứ lúc nào, mà không phải trả tiền. Trong ngăn kéo bên trái, có một hồ sơ chứa đựng tất cả những sự kiện trên thế giới. Hoặc nếu bạn thích, thì hãy đặt một máy tính trên bàn làm việc của mình, nơi bạn có thể hiển thị bất cứ sự kiện nào mà bạn muốn. Cũng có một chiếc đồng hồ trên bàn làm việc, có thể vặn tới hoặc lui, và gắn vào đó là một máy video cassette, được nối vào một T.V. Nó sẽ chiếu những hình ảnh của cuộc đời bạn,
gắn liền với ngày tháng và thời gian mà theo đó chiếc đồng hồ được điều chỉnh. Đằng trước bàn làm việc, có một sân khấu nơi diễn ra những vở kịch, và bạn là khán giả. Bạn phải hơi ngước mắt lên, khoảng 15 độ, để xem kịch. Bên cạnh bàn làm việc, đặt một “tủ khả năng” chứa một bộ quần áo phù hợp với từng ngành nghềâ – bác sĩ, y tá, phi công, pháp sư, nhà giải phẫu thẩm mỹ, kỹ sư, hề, hoặc bất cứ vai trò nào mà bạn muốn đóng. Hãy đóng hai vai mà bạn luôn luôn mong muốn cho bản thân, nhưng cho đến nay, bạn vẫn chưa bao giờ có khả năng trở thành – bất cứ vai nào, từ nha sĩ, đến nhà thiên văn, đến nhà khảo cổ, hoặc một nghề nghiệp nào để làm những điều mới mẻ, chưa từng nghe thấy trước đây, mà bạn đã từng mơ ước làm. Hãy dành ra hai phút để bạn tự mặc vào bộ quần áo chuyên nghiệp và làm những điều mà bạn luôn luôn mong muốn làm. Cuối cùng, hãy đoan chắc rằng bạn có được một cảm giác hoàn toàn thỏa mãn, khi đạt được mục tiêu của mình. Hãy đi tới trung tâm của mình, bất cứ khi nào bạn cảm thấy như thể bạn đang tìm kiếm phương hướng nào mà bạn thích cuộc đời mình đảm nhận. Hãy trải nghiệm cuộc đời theo như bạn thích nó trở thành, không mơ hồ, trừu tượng, nhưng dưới hình thức của những sự kiện cụ thể, như thể trong cuộc đời thật. Hãy quên đi tất cả những khái niệm và lý thuyết. Bạn chỉ có thể trải nghiệm được những sự kiện mà thôi. Hãy tưởng tượng chúng đến từng chi tiết.
14. Hãy nhớ rằng cuộc đời là hàng loạt những thỏa thuận. Cuộc đời bạn phải được xây dựng dựa trên một chiến lược mà theo đó, bạn thực hiện tất cả những quy tắc, và những người khác đều đồng ý diễn theo những quy tắc đó. Điều này sẽ làm cho bạn trở thành một Đạo diễn. Khi bạn là một Đạo diễn, thì bạn tạo ra những quy tắc, và chuyển giao các vấn đề mà những người khác giải quyết. Họ đều đồng ý giải quyết chúng, một khi bạn nhận ra vấn đề. Chẳng hạn, người nào đó đứng lên và la lớn rằng thế giới đang đối diện với vấn đề về sinh thái. Và khi người đó đã la đủ lớn, thì họ có đủ những người ủng hộ tham gia vào việc la lớn, cho đến khi toàn thế giới đều chấp nhận rằng đó là một vấn đề và bắt đầu giải quyết vấn đề này. Như vậy bây giờ, bạn lại thay đổi thái độ đối với cuộc đời mình, sao cho chính bạn quyết định vấn đề này là gì, và kêu gọi những người khác giải quyết vấn đề cho mình. Bởi vì toàn bộ điều mà bạn cần là thời gian và không gian, và sự hiểu biết rằng chiến lược mà bạn đang lập ra phát xuất từ cốt lõi của bản thể mình. Bạn sẽ phải thực hiện nhiều chọn lựa, nhưng chúng sẽ không đòi hỏi cố gắng, một số chọn lựa sẽ đúng đắn, một số khác sẽ sai trái, nhưng bạn sẽ nhận trách nhiệm đối với tất cả những chọn lựa này, và bạn vẫn tiến lên, cho đến khi đạt được chiến lược của mình. Khi bạn đã thực hiện một chọn lựa sai trái, hãy nhận ra nó và từ bỏ nó. Đừng ngừng tố cáo, sao cho những người khác đều chấp nhận rằng những quy tắc của bạn đều xoay quanh các mối quan hệ của bạn với
người khác. Các mối quan hệ tốt đều xoay quanh: 1/ Việc hoàn toàn chấp nhận cốt lõi nội tâm thuộc về bản thể của người khác; 2/ tích cực tạo ra những chiến lược nào đáp ứng được những mục đích và nhu cầu của họ; 3/ tạo ra một nơi an toàn cho họ, bằng cách thừa nhận những nhu cầu của họ, và để cho họ biết rằng bạn sẽ không bao giờ xâm phạm vào nơi đó; và 4/ truyền đạt cho họ ba thái độ trên. Hãy theo dõi các quy tắc này, và các mối quan hệ của bạn sẽ biến đổi: với vợ/ chồng, cha mẹ, anh chị em ruột, con cái, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác. Hãy luôn luôn nói với họ sự thật về quan điểm của bạn đối với bất cứ đề tài nào, mà không đổ cho họ những điều sai trái. Tại sao một chiến lược như vậy có hiệu lực? Sự hiểu biết nguyên nhân sẽ không làm cho bạn thắng cuộc, mà là sự trải nghiệm về hoạt động của nó. Hãy trải nghiệm điều gì đang diễn ra bên trong bạn ngay lúc này. Hãy chấp nhận điều đó, quên đi nguyên nhân, và chấp nhận những hậu quả. Bất cứ khi nào bạn thực hiện một chọn lựa, hãy dành thời gian để ngừng lại, xem xét các vấn đề có liên quan, và chọn tiến trình hoạt động, hoàn toàn nhận trách nhiệm về chọn lựa này. Hãy sáng suốt về mục đích của mình trước khi tiến hành hoạt động, đoan chắc rằng người khác nào đó không đang thôi thúc bạn hành động, rằng bạn không đang chèo chống lại khuynh hướng của mình. Như vậy, toàn bộ thái độ trên bổ sung vào điều này: Trong chiến lược của cuộc đời, bạn chỉ có hai
chọn lựa về việc bạn sẽ làm thế nào để đạt được nơi bạn sẽ đến. Thứ nhất là cách thức vô thức của tâm trí bạn sao chép lại những hình ảnh trong quá khứ của bạn. Một chiến lược như vậy hoàn toàn lập lại – nó không thể tạo ra được bất cứ điều gì. Một chọn lựa khác là đạt được sự thấu hiểu về bản thân, trở nên ý thức về những nhu cầu của mình, bằng cách để cho cốt lõi bên trong mình thiết lập những quyền ưu tiên của nó. Hãy ngừng tạo ra những biểu tượng vì những kinh nghiệm trong quá khứ – danh tiếng, trạng thái, địa vị v.v... – và bắt đầu tạo ra những kinh nghiệm thực sự về niềm hạnh phúc, tình yêu, sự an toàn, bất cứ điều gì khác.
9 Chữa lành Toàn diện
Cuộc thử nghiệm với liệu pháp không sử dụng thuốc thường bắt đầu sau khi người ta thất vọng với y khoa theo xu thế chủ đạo. Bà Flory Fernades làm chứng: “Tôi chịu đựng chứng nhức đầu và chóng mặt suốt 5 năm qua. Tôi đã thử nhiều cách điều trị khác nhau, và tốn rất nhiều tiền, nhưng không hiểu sao tôi vẫn không bao giờ thuyên giảm bệnh. Cuối cùng, tôi tìm đến Trung tâm Sức khỏe Toàn diện, tại Pune, do các Nữ tu Truyền giáo Y khoa điều hành. Tại đây, chỉ với một số tiền ít ỏi, tôi đã được thuyên giảm bệnh đáng giá hàng triệu đồng!!!”. Bà ca ngợi: “Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời đối với tôi. Rất phong phú... Khóa học này do Tiến sĩ (Nữ tu) Celine Payapilly và Sơ Irene Fernandez hướng dẫn. Sơ Celine cho tôi các bài giảng chính, còn Sơ Irene thì thực hiện việc tư vấn”.
Bản thân Sơ Celine bắt đầu sự nghiệp của mình với những tấm bằng về điều dưỡng từ hai trường Đại học Delhi và Chandigarh. Sau khi tham gia với các Nữ tu Truyền giáo Y khoa, một tổ chức tôn giáo quốc tế, do Anne Dengel thành lập, trở thành bác sĩ y khoa và được đào tạo về cách chăm sóc và tổ chức của y khoa theo xu thế chủ đạo, chị đã làm việc suốt 18 năm tại Bệnh viện Thánh gia Kurji, Patna, thăng chức thành Điều dưỡng trưởng. Chị tự hào về sự đóng góp của mình vào việc chữa bệnh, nhưng chị lại bắt đầu hoài nghi về hiệu quả của y khoa hiện đại, khi chị nhận thấy hết bệnh nhân này đến bệnh nhân khác trở lại bệnh viện vì những chứng bệnh đang tái phát. Bước ngoặt xảy đến khi Sơ Celine tham dự một hội nghị chuyên đề về sức khỏe toàn diện vào năm 1979, sau đó là một chương trình đào tạo 6 tuần về các phương pháp sức khỏe toàn diện, dành cho các bệnh nhân ung thư. Sơ Celine nhớ lại: “Cuộc nghiên cứu về ung thư bằng cách sử dụng các phương pháp chữa lành Sức khỏe Toàn diện là sự bộc lộ có thử nghiệm đầu tiên của tôi về cách hành nghề này. Đó chính là nguyên nhân khiến tôi cắt đứt với ngành điều dưỡng như tôi đã từng hiểu biết về nó và tin rằng nó thật thân yêu – và tôi chuyển sang một lãnh vực mới về cách chữa lành. Tôi đã đi theo cách chữa lành Toàn diện với sự hứng thú và cam kết”. Chị đậu Thạc sĩ về Sức khỏe Toàn diện và đạt được học vị này từ California. Chị trải qua 6 năm tại Mỹ và đã nhận được nhiều văn bằng khác nhau về liệu pháp không sử dụng thuốc. Từ đó, chị đạt học vị tiến sĩ về cách chữa lành toàn diện; luận án của chị là về phương pháp luận nghiên cứu.
Chị thông báo với bạn: “Tháng Năm 1987, chúng tôi đã mở Trung tâm Sức khỏe Toàn diện tại Sandipani, Bibwewadi, tại Pune-37. Trung tâm này mở cửa vào các buổi sáng. Các buổi chiều, chúng tôi thăm viếng khu vực mục tiêu của chúng tôi, gồm 4000 gia đình đang sống trong các khu ổ chuột và khu vực tái định cư ổ chuột gần trung tâm của chúng tôi. Chúng tôi không chỉ chữa bệnh, mà còn bao hàm cả vấn đề giáo dục, trường học, sức khỏe và sự nhạy cảm về môi trường đưa đến sức khỏe toàn cầu. Chúng tôi có một khu vườn rộng, và người ta học hỏi cách làm thế nào để chuẩn bị và sử dụng những viên thuốc đơn giản bằng thảo mộc”. Các nữ tu bắt đầu dạy các khóa học về sức khỏe toàn diện cơ bản, và tiến hành việc gia tăng các chương trình giảng dạy khi họ tiếp tục. Cuộc Hội thảo Phản xạ học về Bàn chân và Sức khỏe Toàn diện Cơ bản bao gồm việc nghiên cứu về năm chiều kích cơ bản của sức khỏe toàn diện: Tựchịu trách nhiệm, ý thức về dinh dưỡng, sự sung sức về thể lý, sự nhạy cảm về môi trường và cách xử lý tình trạng căng thẳng. Ban đầu, họ sử dụng những ghi chú về bài thuyết trình được sao chép, và các bài tập để các tham dự viên thực hiện. Nhưng tính cách phổ biến của khóa học đã buộc các nữ tu phải phổ biến Cuộc Hội thảo về Sức khỏe Toàn diện Cơ bản rất mở rộng, thực tiễn và thanh lịch của họ, bao gồm nhiều bài trắc nghiệm về cách tự-đánh giá bản thân và các phương pháp chữa lành, kể cả Yoga Nidra, Yoga của Trung Quốc, và cách điều trị Bates dành cho tầm nhìn nghèo nàn. Theo như các nữ tu giải thích: “Sức khỏe toàn diện thúc đẩy mối quan hệ giữa người với người và sự hợp nhất của cơ thể, tâm trí, tinh thần và những cảm xúc. Điều này
khích lệ lối sống quân bình lành mạnh”. Các sơ còn nói với bạn về khóa học: “Bạn sẽ được hướng dẫn để tái cấu trúc cuộc sống của mình, hầu đạt được một mức độ cao về sự sung túc. Bạn sẽ học hỏi các bài tập luyện để giảm bớt tình trạng căng thẳng, và gia tăng khả năng của mình hầu đương đầu với căng thẳng”. Phản xạ học về Bàn chân, hay sự cô đọng cách xoa bóp bàn chân, là một “nghệ thuật chữa lành tự nhiên, một phương cách kích thích các cơ quan bên trong mà không sử dụng thuốc, do đó, gia tăng sự tuần hoàn và phục hồi các chức năng của cơ thể thành bình thường”. Các sơ cũng dạy một khóa học riêng biệt 5 ngày về cách Xử lý Căng thẳng, trong đó, bạn “học hỏi cách xử lý căng thẳng, sao cho bạn không phải chịu đựng những căn bệnh về căng thẳng thần kinh, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp tưởng tượng và thư giãn, cách suy niệm, đánh giá những mức độ căng thẳng và liệu pháp nghệ thuật và âm nhạc”. Một chương trình khác được hướng dẫn tại Trung tâm Toàn diện là Nhật ký Tĩnh tâm tập trung. Chương trình này được quảng cáo như là một phương pháp phát triển cá nhân, thông qua tâm lý học có chiều sâu, tưởng tượng lúc mờ sáng, liên kết với trí lực thích hợp, để vươn tới chiều sâu của tinh thần: “Bạn viết về chính cuộc đời mình trong một cuốn nhật ký, thông qua các bài tập luyện được cấu trúc”. Các sơ còn hướng dẫn các cuộc hội thảo về Thiền Shiatsu và Yoga Châm cứu, vốn liên kết vài phương pháp cổ xưa về cách vận động cơ thể, bấm huyệt châm cứu và yoga. Việc đào tạo cách tổng hợp tâm lý và khẳng định cũng được giảng dạy. Cách tổng hợp tâm lý, do nhà phân tích tâm lý người Ý Roberto Assagioli triển khai, “đánh giá khía cạnh
tâm lý, khai thác vô thức, đào tạo ý chí, đưa ra các bài tập luyện để ý thức được cá tính mình và cách hình dung, giúp bạn sắp xếp kiểu mẫu lý tưởng của mình, và rút ra những kế hoạch để đạt được lý tưởng này”. Các sơ còn truyền đạt Cuộc Hội thảo về Giấc mơ, với những mục tiêu sau đây: Học hỏi các phương pháp khác nhau, để khám phá ý nghĩa của giấc mơ, hình thành một nhóm giấc mơ, hầu giúp nhau tìm được ý nghĩa của những giấc mơ, lắng nghe những cuộn băng của các chuyên gia về tầm quan trọng của những giấc mơ, để tìm được quà tặng mà những giấc mơ mang lại, khai thác kinh nghiệm của những lúc mơ màng khi vừa thức giấc, và vẽ những hình tròn tượng trưng cho tôn giáo vũ trụ (những hình vẽ biểu tượng), bao gồm kinh nghiệm của bạn. Liệu pháp Phân cực là một “hệ thống hoàn toàn tự nhiên mà chúng tôi đưa ra, bao gồm cách vận động cơ thể thật nhẹ nhàng và sâu sắc bằng phép dinh dưỡng, các bài tập luyện, và phát triển những tư tưởng và thái độ tích cực. Đây là một phương cách để trở nên hài hòa với cơ thể, tâm trí và tinh thần của bạn”. Các sơ còn hướng dẫn một khóa học tương ứng, bao hàm mọi khía cạnh về Sức khỏe Toàn diện, dành cho những người thực hành y khoa kéo dài trong vài năm. Họ viết ra và soạn thảo sách bài tập riêng thành ba tập, tựa đề là The Banyan Tree, bao gồm các phương pháp chữa lành và nghiên cứu dựa trên các đối tượng cụ thể. Mặc dù liệu pháp không sử dụng thuốc chỉ được thực hành tại Trung tâm Sức khỏe Toàn diện, nhưng sơ Celine vẫn tin rằng “có thể sử dụng tất cả những phương thức điều trị trong cách chữa lành toàn diện, nghĩa là phẫu thuật, thuốc uống, hóa trị, xạ trị, dinh dưỡng, phục hồi, thôi miên, châm
cứu, và tất nhiên, cả tôn giáo nữa. Để đạt được một mục tiêu rộng lớn như vậy, sẽ cần phải rút ra những sáng kiến của các học giả uyên bác nhất, các nhà nghiên cứu thành thạo nhất của chúng tôi, và những người hành nghề chuyên môn. Bởi vì mục tiêu cuối cùng là sử dụng những người có uy tín này để dạy cho cá nhân đảm nhận trách nhiệm đối với bản thân, và tự chữa lành cho chính mình, bằng cách thay đổi bất cứ thái độ, giá trị và lối sống nào không lành mạnh”. Một cách cập nhật hóa đối với ý kiến y khoa về cách chữa lành toàn diện như sau: Vài năm trước đây, Tiến sĩ Robert Wissler, một nhà nghiên cứu bệnh học nổi tiếng người Mỹ, đã cung cấp chế độ ăn uống của các bệnh nhân bệnh viện cho mấy con khỉ đầu chó. Chẳng bao lâu sau, loài khỉ này đã phát triển chứng động mạch bị tắc nghẽn. Cuộc thử nghiệm chứng tỏ sự lan tràn và hiểm họa của chế độ ăn uống theo McDonald (công ty chuyên sản xuất loại thức ăn nhanh), cũng như nhấn mạnh vào những giới hạn của y khoa hiện đại. Chiến thắng lớn nhất về phép chữa đối chứng trong y học là phát minh ra các thuốc kháng sinh, sulphamide, và vaccine. Phát minh này đã giảm bớt, nếu không phải là hoàn toàn loại bỏ được tỉ lệ mắc phải những căn bệnh truyền nhiễm và hay lây lan. Nhưng khi thế kỷ XX trôi qua, thì những chứng bệnh khác lại đến với sân khấu trung tâm. Những chứng bệnh này đi đôi với tim, phổi, gan, và mở rộng đến những rối loạn kinh niên và tâm thần. Chúng phát xuất từ lối sống của người giàu có và nổi tiếng ở Phương Tây và những người hay bắt chước trong đoàn thể của họ. Đây là lối sống được biểu thị bằng chủ nghĩa cá nhân thái cực, có hại cho lợi ích của gia đình; hoài bão không ngừng, kèm theo
hậu quả là tình trạng căng thẳng và thói tham công tiếc việc; tiêu thụ với mức độ lớn rượu và thực phẩm kém dinh dưỡng và nhiều chất béo, và một công việc hàng ngày tĩnh lặng, được ngắt quãng bằng những chầu không thường xuyên tại sân tennis hoặc sân gôn. Việc xử lý với những chứng bệnh này càng ngày càng trở thành một vấn đề thuộc công nghệ cao, không đủ khả năng trên quy mô lớn, ngoại trừ như một đặc quyền của công ty, và về cơ bản, đó là một hoạt động nguy hiểm và không đạt hiệu quả. Vì thế, những con số ngày càng tăng các bệnh nhân đã tìm kiếm những hình thức điều trị khác, và điều đáng ngạc nhiên hơn, những ánh sáng dẫn đầu trong ngành y học phương Tây vẫn đang nghiên cứu các lãnh vực này, và viết ra những quy định không chính thống như: yoga, suy niệm, thiên nhiên liệu pháp, và phép chữa vi lượng đồng cân dành cho các bệnh nhân của họ. Thật khó xác định được giai đoạn chính xác, khi nào xảy ra bước ngoặt hướng tới y khoa toàn diện (vốn xử lý toàn thể con người như thể trái ngược với y khoa thuộc về triệu chứng). Nhưng thật hữu ích khi hướng tới thập niên 70, và tập trung vào Maharishi Mahesh Yogi và phương pháp Suy niệm Tiên nghiệm (TM) của ông. Từ đó, Phương Tây đã chủ yếu quen thuộc với Hatha Yoga, trong số tất cả các phương pháp yoga, nhưng phương pháp này đã được hiểu một cách rộng rãi như là phù hợp hơn với những người mong muốn giỏi về môn thể dục mềm dẻo, sao cho nó lôi kéo được những người ủng hộ chủ yếu từ bên ngoài. Mặt khác, Maharishi đã đi tới cốt lõi của những cách thực hành phương Đông, nghĩa là suy niệm, và một phương pháp sử dụng công thức tụng niệm như là phương tiện
truyền đạt. Ông đã lột bỏ cách thực hành cho đến những yếu tố cần thiết tối thiểu của nó, và thậm chí đã giảm bớt công thức tụng niệm thành một từ chỉ có một âm, và thời gian thực hành tới 20 phút, mỗi ngày hai lần. Maharishi đã bá chủ những đầu đề các bài báo trên thế giới trong một thời gian, khi ban nhạc The Beatles và các ngôi sao khác trong ngành kinh doanh giải trí trở thành các môn đệ của ông và là những người thực hành TM. Nhưng chẳng bao lâu sau, họ nhàm chán đối với ông và bỏ đi hàng loạt. Khi dường như ông bị hết thời, thì Robert Keith Wallace và Herbert Benson, hai sinh viên y khoa tại trường Y Harvard, lại quyết định thực hiện cuộc nghiên cứu về chức năng sinh lý của việc suy niệm trong các luận án tiến sĩ của họ. Bởi vì những người thực hành TM đều đi theo một phương pháp tiêu chuẩn, nên họ trở thành những đối tượng lý tưởng đối với dự án. Dự án cho thấy rằng TM có những tác động hữu ích khác nhau đối với cơ thể. Dự án này, và các cuộc nghiên cứu do các nhà nghiên cứu khác sau đó không bao lâu, đều chứng tỏ rằng: sự giảm bớt việc sử dụng oxy trong khi thực hành TM biểu thị một trạng thái nghỉ ngơi sâu xa về thể lý, và đưa đến việc gia tăng năng lực và sức sống; kết quả của trạng thái thư giãn mà TM mang lại là sự giảm bớt stress, căng thẳng và nỗi lo lắng, một kinh nghiệm trong số những người suy niệm với đầy đủ ý thức, kèm theo sự gia tăng an bình nội tâm; TM làm giảm bớt đáng kể mức độ buồn phiền và chứng loạn thần kinh chức năng về các vấn đề; TM đưa đến mối quan hệ tương tác hài hòa giữa các cá nhân làm việc với nhau trong bất cứ tổ chức nào; phương pháp này giảm bớt mức độ “ồn ào” hoặc rối loạn trong hệ thống thần kinh,
biểu thị sự ổn định thần kinh nhiều hơn; nó đưa đến những thay đổi về nhân cách theo khuynh hướng lành mạnh hơn, và nhân cách được thể hiện đầy đủ tiềm năng hơn; người ta nhận thấy những người thực hành TM đều thích nghi hơn với những căng thẳng về thính giác (những tiếng ồn lớn), so với những người không thực hành phương pháp này; họ hồi phục khỏi tình trạng căng thẳng sớm hơn những người không thực hành; họ đã bộc lộ sự gia tăng đáng kể về thành tích trong công việc ở tất cả mọi trình độ; các nghiên cứu cũng cho thấy những tác động hữu ích đối với tình trạng huyết áp cao, chứng đau thắt ngực (đau tim), hen xuyễn, viêm nhiễm, mất ngủ, nói lắp bắp, bình thường hóa về mặt trọng lượng, tình trạng lạm dụng rượu và ma túy. Bác sĩ Herbert Benson đã làm sáng tỏ thêm về cách suy niệm không mang tính cách thần thoại, bằng cách thay đổi công thức tụng niệm bí mật của TM, được quy định theo cá nhân, bằng từ “một”. Ông cũng đạt được những kết quả tương tự, bao gồm sự sụt giảm huyết áp của đối tượng, và ông đã bắt đầu quy định cho các bệnh nhân bị cao huyết áp của ông áp dụng phương pháp này, với những kết quả thành công. Theo những hướng dẫn của Bác sĩ Benson, họ ngồi thật thoải mái, nhắm mắt, thư giãn tất cả các bắp thịt, trở nên ý thức về hơi thở của mình. Trong khi thở ra, họ nói thầm: “một”. Họ lập lại từ “một” đối với từng hơi thở. Cách thực hành này kéo dài từ 10 đến 20 phút. Từ lâu trước đây, các nhà nghiên cứu khác trong y học đã sát nhập cách suy niệm và yoga vào các chương trình của họ, và đôi khi, họ còn mạnh mẽ đảo lộn những quan điểm có giá trị của giới có ảnh hưởng trong y học. Một trường hợp như vậy là của Bác sĩ Dean Ornish, người đã
phát hiện rằng với cách suy niệm, rèn luyện vừa phải, như: đi bộ và yoga asanas, chế độ ăn kiêng ít chất béo và một chương trình hỗ trợ (để bù đắp cho tình trạng thiếu sự hỗ trợ của gia đình), thì bạn có thể loại bỏ được bệnh động mạch vành tim. Cho đến lúc đó, ý kiến của y khoa vẫn cho rằng phương cách duy nhất để khai thông động mạch là giải phẫu thay tim nhân tạo và mạch bạch huyết, một quá trình mà qua đó, một quả cầu được đưa vào động mạch bị tích tụ chất cholesterol khiến gây ra tình trạng nghẽn động mạch. Khi Bác sĩ Ornish đến Hiệp hội Tim Mỹ và yêu cầu trợ cấp cho dự án của ông, thì họ đã bác bỏ ông, dựa trên lý lẽ rằng không thể hiểu nổi việc có thể loại bỏ bệnh đau tim, và ngay cả nếu có thể được, thì không thể hiểu nổi việc các bệnh nhân sẽ đồng ý với sự thay đổi quyết liệt về lối sống mà Bác sĩ Ornish đề nghị. Cuối cùng, Bác sĩ Ornish đã kiếm được sự tài trợ từ các nguồn tư nhân không thuộc về y khoa, các công ty và cơ sở nhỏ có tầm nhìn xa. Và trước sự chán nản kéo dài và mạnh mẽ của Hiệp hội Tim Mỹ, người ta vẫn hy vọng rằng ông tìm được đủ bệnh nhân đang ở tình trạng bệnh tim trầm trọng tình nguyện chấp nhận dự án này. Họ bắt đầu trải nghiệm sự thay đổi hoàn toàn tình trạng bị bao vây của họ trong vòng một tháng, từ khi bắt đầu chương trình này. Bác sĩ Ornish không chủ trương loại bỏ phép chữa đối chứng, đặc biệt trong các trường hợp nguy kịch, nhưng ông chỉ đưa ra tất cả những chọn lựa có thể được cho các bệnh nhân mà thôi. Ảnh hưởng từ cuộc nghiên cứu của Bác sĩ Ornish trên nhận thức của công chúng và các công ty sản xuất thực phẩm thật sâu xa. Hiện nay, công ty McDonald chú ý nhiều đến dinh dưỡng cũng như sở thích của những người ăn hamburger của họ. Theo Anthony Sampson trong Company
Man, thì các công ty khác đã đa dạng hóa các chương trình ăn kiêng và thực phẩm dinh dưỡng, “như vậy, họ có thể kiếm được lợi nhuận từ chế độ ăn kiêng cũng như ăn quá nhiều”. Bác sĩ Carl Simonton, người quan tâm đến việc điều trị các bệnh nhân ung thư, đã khám phá rằng hình ảnh tưởng tượng được hướng dẫn càng củng cố sự hồi phục nơi các bệnh nhân của ông, cũng như sự hồi phục của các bệnh nhân có những chứng bệnh mãn tính, và các vận động viên bị chấn thương. Với tư cách là một phụ tá đối với liệu pháp truyền thống, quy định của Bác sĩ Simonton như sau: “Bạn hãy tìm một căn phòng hoặc một nơi không bị bất cứ sự quấy rầy nào. Không có radio, T.V, hoặc điện thoại. Hãy trở nên ý thức về hơi thở của mình, và chú ý xem cơ hoành mở ra và co lại như thế nào khi bạn hít thở. Hãy tạo ra một hình ảnh trong tâm trí về sự căng thẳng trong các bắp thịt mình – ngắm nhìn bàn tay nắm lại và bắp thịt trên mặt nhăn nhó thật căng. Quan sát bàn tay mở ra và nét mặt dịu đi. Chuyển xuống cơ thể, từ đầu đến các ngón chân, hình dung các bắp thịt kéo căng và nhìn xem chúng thư giãn và dịu đi. Hãy tự tưởng tượng mình đang ở trong một khu vườn xinh đẹp, bãi biển vàng óng ánh mặt trời, khu rừng tỏa hương xanh ngát, hoặc bất cứ nơi nào có ý nghĩa an bình và hạnh phúc đối với mình. Nếu bạn không có một nơi như vậy, thì hãy tạo ra. Bây giờ, hãy hình dung một cách sống động về những điều bạn mong muốn xảy ra. Nếu bạn là một vận động viên, hãy bắt đầu việc tập luyện của mình. Nếu bạn là một bệnh nhân, hãy tự hình dung mình đang khỏe hẳn ra khi cơ thể bạn tự chữa lành. Một nữ bệnh nhân bị chứng viêm khớp tồi tệ, đã
hình dung một đội quân những người tí hon đang làm nhẵn và bôi trơn các khớp xương vốn bị cứng đờ của bà. Nếu bạn bị bệnh chàm bội nhiễm, hãy hình dung một làn da trơn láng, tươi sáng, rực rỡ với mạch máu thật tươi mát. Để thành công, bạn phải thực hành thường xuyên phương pháp này, bạn càng thực hành lâu bao nhiêu, thì càng tốt bấy nhiêu. Bác sĩ Simonton cũng dạy cho các bệnh nhân của ông cách hình dung và thầm kêu gọi những Hướng dẫn viên Nội tâm, hoặc quân sư, từ vô thức, để khuyên bảo họ trong việc xử lý chứng bệnh của họ. Ông còn cung cấp nhiều bản báo cáo mang tính cách giai thoại về những người đã khắc phục được chứng bệnh trầm trọng, nhờ sự hướng dẫn nội tâm này. Bác sĩ Bernie Siegel, một nhà phẫu thuật đã tham dự hội nghị chuyên đề của Bác sĩ Simonton, báo cáo rằng: “Tôi tiếp cận cách tập luyện này với tất cả sự hoài nghi... Tôi vẫn ngồi, nhắm mắt lại, và tuân theo những chỉ dẫn... Tôi gặp George (hướng dẫn viên nội bộ mặc một chiếc áo giải phẫu). Thật là một hành vi nhận thức không thể tin nổi đối với tôi, bởi vì tôi đã không mong đợi bất cứ điều gì xảy ra... Toàn bộ điều mà tôi biết là kể từ đó, ông ấy trở thành một người bạn đồng hành vô giá của tôi... Hiện nay, cuộc đời tôi trở nên dễ dàng hơn nhiều, bởi vì ông ấy làm việc cật lực”. Bác sĩ Jon Kabat-Zinn là một nhà nghiên cứu đã kết hợp một hình thức suy niệm của Phật giáo, được biết đến như là sự lưu tâm, vào chương trình giảm bớt căng thẳng của ông, và ông đã động viên được kết quả đối với những rối loạn khác nhau về mặt sinh lý và tâm thần, bao gồm bệnh khí thủng, phổi bị tắc nghẽn kinh niên, và một chứng bệnh ngoài da được biết đến như là bệnh vảy nến, nhưng vẫn chưa
thu thập được bằng chứng kết luận. Cách đào tạo của ông bao gồm: ngồi suy niệm (trở nên ý thức về hơi thở của mình trong một lúc), yoga asanas, và nội soi cơ thể (trở nên ý thức về cảm giác trên cơ thể mình một cách có hệ thống, từ đầu xuống bàn chân). Một trong các nhân vật hàng đầu về y học toàn diện ở phương Tây hiện nay là một bác sĩ nội tiết người Ấn Độ, Bác sĩ Deepak Chopra. Sau khi đọc một bài báo trên nhật báo về TM, ông đã chịu ảnh hưởng của Maharishi Mahesh Yogi, ghi danh vào khóa học, hài lòng với những kết quả trên chính mình, và bắt đầu một cuộc khảo sát tỉ mỉ về y khoa ayurveda, sau một cuộc gặp gỡ tình cờ với Maharishi. Ông tham gia vào tổ chức của Maharishi với tư cách là người đứng đầu trung tâm ayurveda của tổ chức này. Ông cũng đã viết vài cuốn sách bán chạy nhất về cách chữa lành (Creating Health – Tạo ra Sức khỏe, Quantum – Định lượng, Journey to Healing – Cuộc Hành trình đến với sự Chữa lành, The Higher Self – Con người Cao đẹp hơn), tất cả những cuốn sách này đều tán thành phương pháp Veda đối với sức khỏe, và một cuốn sách trong số đó, Perfect Health (Sức khỏe Hoàn hảo), giải thích các nguyên tắc và cách thực hành ayurveda. Hai cuốn sách Ageless Body (Cơ thể Trẻ mãi không Già) và Timeless Mind (Tâm trí không Chịu Ảnh hưởng Thời gian) của ông đề xuất quan điểm rằng người ta già đi không phải vì họ được lập trình về mặt di truyền để trở thành như vậy, nhưng bởi vì họ nghĩ là như thế, sau khi nhìn thấy mọi người chung quanh ông đều đang già đi. Ông đưa ra một chương trình thực tế, để khắc phục tình trạng phổ biến này trong Growing Younger (Em Út đang Lớn lên), một bộ truyền thông đa phương tiện (chiếu một
cuộn video, 6 băng cassettes và một cuốn sách bài tập), vừa được phát hành. Xin chào mừng tuổi trẻ muôn năm! Giống như Bác sĩ Chopra, nhiều người thực hành thành công phép chữa đối chứng trong y học đã thay đổi sang phép chữa vi lượng đồng cân, và những hình thức khác của y học. Và các bệnh nhân cũng vậy. Không lâu trước đây, đài BBC phát đi bằng truyền hình bộ phim tài liệu về một nhà nghiên cứu phép chữa đối chứng đã thực hiện việc nghiên cứu phép chữa vi lượng đồng cân, để chứng tỏ bản chất phi khoa học của phương pháp này. Ông phân tích các thành phần thuốc của nó, đo lường những số lượng cực nhỏ của thuốc, và cho thấy rằng tác động của thuốc sẽ bị vô hiệu hóa, ngay cả khi chúng chảy qua cổ họng vào dạ dày. Nhưng trước khi phổ biến những kết quả của mình, ông lại quyết định nghiên cứu tỉ lệ các bệnh nhân hồi phục nhờ phép chữa vi lượng đồng cân, tương ứng với các bệnh nhân tương tự được hồi phục nhờ phép chữa đối chứng, và các bệnh nhân không đi theo cách điều trị nào. Ông ngạc nhiên phát hiện thấy các bệnh nhân theo phép chữa vi lượng đồng cân hồi phục nhanh nhất trong số cả ba nhóm. Một trong những mục đích của y khoa toàn diện là nhằm nâng cao khả năng miễn dịch tự nhiên của bạn, thông qua các phương tiện tự nhiên và tác động như là một cách phòng bệnh. Các trung tâm khác nhau hoạt động dựa trên nguyên tắc này tại Ấn Độ và càng ngày càng gia tăng tại những nơi khác. Chẳng hạn, một Trung tâm Sức khỏe Toàn diện, do các Nữ tu Truyền giáo Y khoa điều hành tại Pune. Các khóa học về liệu pháp không sử dụng thuốc mà các sơ đưa ra bao gồm: cách chữa lành pranic, sức khỏe toàn diện,
và phản xạ học về bàn chân, châm cứu bấm huyệt, Thiền Shiatsu và yoga châm cứu, liệu pháp phân cực và tiếp xúc vì sức khỏe. Nhưng làm thế nào mà tất cả các liệu pháp đều có thể đạt hiệu quả như nhau? Có lẽ vai trò của chúng là thu hút tâm trí và cung cấp một môi trường thoải mái cho cơ thể, để nó tự chữa lành một cách tự nhiên.
10 Luồng Tư tưởng: Nơi kết hợp Hạnh phúc và Tính sáng tạo
Tiến sĩ Mihaly Csikszentmihalyl là giáo sư và cựu Trưởng Khoa Tâm lý tại Trường Đại học Chicago. Suốt nhiều thập niên, ông đã hướng dẫn cuộc nghiên cứu về hạnh phúc và những điều kiện thúc đẩy hạnh phúc. Sau này, ông viết: “Điều mà tôi ‘phát hiện’ được, đó là hạnh phúc không phải là thứ gì đó xảy ra. Hạnh phúc không phải là kết quả của vận may hoặc cơ hội tình cờ. Hạnh phúc không phải là thứ mà tiền bạc có thể mua hoặc quyền lực có thể điều khiển được. Hạnh phúc không tùy thuộc vào những sự kiện bên ngoài, nhưng nói đúng hơn, tùy thuộc vào cách chúng ta giải thích thế nào về những sự kiện đó. Thật vậy, hạnh phúc là một trạng thái cần phải được mỗi người chuẩn bị, trau dồi, và bảo vệ một cách riêng biệt. Những người nào học hỏi để kiểm soát kinh nghiệm nội tâm đều sẽ có khả năng xác định được phẩm chất cuộc sống của họ, điều này thật gần gũi, mà bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể đạt được để trở nên hạnh phúc”.
Cuộc nghiên cứu mang tính cách lịch sử của Tiến sĩ C (để rút ngắn cái tên dài) đưa đến kết quả là một cuốn sách gây ảnh hưởng, Flow: The Psychology of Happiness (Luồng Tư tưởng, Tâm lý học về Hạnh phúc), trong đó, ông xem xét cách làm thế nào để có thể tạo ra những điều kiện đưa đến hạnh phúc. Ông tiếp tục nghiên cứu về tính sáng tạo, bằng cách phỏng vấn hàng trăm nhân vật rất sáng tạo, những người đã đạt được nhận thức về các lãnh vực của họ, và ông đi tới kết luận rằng một trạng thái nhận thức mà ông đặt tên là “luồng tư tưởng” thật phổ biến, cả đối với niềm hạnh phúc lẫn tính sáng tạo. Ông đã điều khiển cuộc nghiên cứu đó như thế nào? Ông sử dụng một phương pháp được gọi là Phương pháp Thử Trải nghiệm. Các đối tượng được yêu cầu mang một thiết bị được đánh số trang điện tử trong vòng một tuần, và ghi chú trên giấy những cảm giác và tư tưởng của họ theo tín hiệu của máy nhắn tin. Chiếc máy nhắn tin này được radio vận hành mỗi ngày 8 lần, trong những khoảng thời gian tùy tiện. Đến cuối tuần, các nhà nghiên cứu có một bản báo cáo toàn diện về các độ cao và độ thấp và những tư tưởng có liên quan của người đó, từ hầu hết các nơi trên thế giới. Kế đến, các nhà nghiên cứu khác thực hiện thêm cuộc nghiên cứu về các nơi đó trên thế giới, mà cuộc nghiên cứu trước đó và những kết luận tương tự đã đạt tới đều không nhắm đến. Dựa trên bằng chứng, Tiến sĩ C viết: “Tôi đã triển khai một lý thuyết về kinh nghiệm tối ưu, dựa trên khái niệm về luồng tư tưởng – trạng thái mà trong đó, con người hết sức dồn tâm trí vào một hoạt động, đến nỗi dường như không điều gì khác trở thành vấn đề; tự thân kinh nghiệm này thật đáng vui mừng, đến nỗi người ta sẽ thực hiện nó thậm chí bằng một cái giá rất lớn, chỉ vì ích lợi của hoạt động đó”. Sau này,
khái niệm về luồng tư tưởng đã được các nhà tâm lý khác sử dụng, để nghiên cứu về những mức độ thỏa mãn và động cơ thực chất, các nhà xã hội học còn sử dụng khái niệm này để nghiên cứu sự trái ngược của tình trạng bị xa lánh ghét bỏ, và các nhà nhân chủng học vẫn coi khái niệm này là kết quả của sự sôi nổi và những nghi thức tập thể. Tiến sĩ C định nghĩa về nhận thức như là thông tin được sắp đặt một cách cố ý, và ông khẳng định rằng trong luồng tư tưởng, con người được xác định đặc điểm bởi tính phức tạp cao hơn, do sự phân biệt cũng như sự kết hợp gia tăng gây ra. Về sự phân biệt, ông muốn nói đến một hoạt động hướng tới tính duy nhất, nghĩa là tính cách để phân biệt những người khác và ý tưởng của họ; mặt khác, kết hợp nghĩa là liên kết và đến cùng với người khác và những điều họ biểu thị. Trong luồng tư tưởng, cả hai khuynh hướng đều được liên kết. Và có sự hoàn toàn vui hưởng giây phút hiện tại. Trạng thái này xảy ra khi những cơ hội mà người ta đối diện đều như nhau. Không có cơ hội nào cao hơn hoặc thấp hơn, so với những khả năng của con người. Trong những tình huống như vậy, thì toàn bộ sự chú ý của con người đều được thu hút vào hoạt động hiện tại, đến mức độ thậm chí người ta quên đi bản thân và tất cả mọi điều khác, ngoại trừ hoạt động ngay trước mắt. Hoạt động này trở nên rất tự nhiên như thể tự động xuất hiện, vì tính chất không cần phải cố gắng của nó. Bác sĩ C đặt tên cho kinh nghiệm về luồng tư tưởng này là “kinh nghiệm tự thân (autotelic experience)”, mà ông nói rằng: “nó nâng dòng đời lên đến một mức độ khác hẳn. Sự ghét bỏ xa lánh mở đường cho sự thu hút tâm trí, niềm vui thay thế cho nỗi ngán ngẩm, sự không tự lực biến thành cảm giác làm chủ, và năng lực tinh thần làm việc để củng cố ý thức về bản thân, thay vì trở nên mất mát trong
dịch vụ đối với những mục tiêu bên ngoài. Khi kinh nghiệm đang thưởng công về mặt thực chất, thì cuộc đời được biện hộ trong hiện tại, thay vì bị bắt làm con tin đối với lợi ích tương lai mang tính cách giả thiết”. Bác sĩ C ghi chú rằng có người vẫn có thể trải nghiệm được niềm vui, ngay cả trong một trại tập trung, trong khi những kẻ khác lại chịu đựng nỗi phiền muộn ngay tại nơi nghỉ mát, nhưng ông lại viện dẫn trường hợp của nhà tâm lý người Pháp Roger Caillois, người đã phân chia những sinh hoạt vui chơi của con người thành bốn loại: sự xung đột hoặc tất cả những hoạt động cạnh tranh như thể thao và điền kinh; rượu bia hoặc những trò chơi may rủi như súc sắc và cờ bạc; ilinx hoặc cảm giác chóng mặt, nghĩa là những hoạt động thay đổi nhận thức bằng cách góp nhặt năng lực tri giác thông thường, như lái xe, vòng quay ngựa gỗ, hoặc môn lặn trần; và bắt chước, bao gồm những thực tại khác như khiêu vũ, diễn kịch và các môn nghệ thuật nói chung, ngay cả toán học. Theo bác sĩ C, có thể về thể chất, một số người không có khả năng trải nghiệm được luồng tư tưởng. Theo một số nhà tâm lý, đó là những người bị bệnh tâm thần phân liệt, có thể nói là họ phải chịu đựng tình trạng thiếu niềm vui. Cũng có những người khác tự ý thức về bản thân mình, để dễ dàng trải nghiệm được luồng tư tưởng, bởi vì luồng tư tưởng đòi hỏi bạn phải tạm thời quên đi bản thân mình. Và có những người quá quy ngã, họ không tự ý thức về bản thân mình, nhưng họ nhìn mọi sự từ quan điểm cá nhân của họ. Cả hai loại người trên đều không thể kiểm soát được năng lực tinh thần đủ tốt, để trải nghiệm luồng tư tưởng một cách dễ dàng. Hoàn cảnh tự nhiên gay gắt cũng làm cho người ta
khó vui hưởng được luồng tư tưởng, mặc dù cả những người eskimo lẫn những dân cư của Kalahari đều đã chiến thắng được hoàn cảnh của họ, để tạo ra các nền văn hóa phức tạp. Những tiêu chuẩn và tình trạng xã hội tương tự vốn bị lẫn lộn, đưa đến tình trạng vô tổ chức, thể hiện qua nỗi lo lắng cá nhân, và sự xa lánh ghét bỏ, thể hiện qua nỗi chán nản, cũng ngăn cản luồng tư tưởng. Ngay cả như vậy, những nhân cách tự thân vẫn chiến thắng trong những hoàn cảnh không thuận lợi nhất và có hại nhất, bằng cách rất chú ý đến những chi tiết về môi trường, và lập ra những mục đích phù hợp với điều kiện của họ, mặc dù còn hạn chế. Bác sĩ C nhận xét: “Khi chúng ta không hạnh phúc, buồn phiền hoặc chán nản, thì chúng ta sẵn có một phương thuốc dễ dàng: dù sao đi nữa vẫn phải vận dụng cơ thể. Ngày nay, hầu hết mọi người đều ý thức được tầm quan trọng của sức khỏe và sự sung sức về thể lý. Nhưng hầu hết tiềm năng vô hạn để vui hưởng cuộc sống mà cơ thể cung cấp đều vẫn còn chưa được khai thác. Ít người học hỏi để chuyển động với vẻ uyển chuyển của một diễn viên nhào lộn, nhìn bằng đôi mắt của một nghệ sĩ, cảm nhận niềm vui của một vận động viên phá được lỷ lục của mình, thưởng thức bằng sự tinh tế của một người am hiểu, hoặc yêu bằng một kỹ năng nâng cao tính dục thành một hình thức nghệ thuật. Bởi vì những cơ hội này dễ dàng ở trong tầm tay của chúng ta, nên bước dễ dàng nhất để hướng tới việc cải thiện phẩm chất cuộc sống bao gồm trong việc đơn giản học hỏi cách kiểm soát cơ thể và các giác quan của nó”. Bí quyết hệ tại ở việc đào tạo cơ thể đạt được những mục đích nhỏ bé nhưng lại ngày càng gia tăng, có khả năng đạt được. Từ cuộc nghiên cứu của mình, bác sĩ C phát hiện rằng khi người ta tham gia vào những thú tiêu khiển đắt tiền như chạy thuyền máy, lái
xe hoặc xem T.V, thì họ lại ít hạnh phúc hơn, so với khi họ chỉ tham gia vào việc nói chuyện với nhau, hoặc dồn hết tâm trí vào việc làm vườn, đan len hoặc sinh hoạt nào ít tốn kém hơn. Bác sĩ C gợi ý là nơi làm việc cung cấp những cơ hội tiêu biểu đối với luồng tư tưởng, nếu đáp ứng được những điều kiện đúng đắn. Nên trù tính kỹ công việc, sao cho nó giống như hoạt động luồng tư tưởng nào đó vẫn thách thức khả năng của con người, nhưng vẫn không thách thức một cách áp đảo. Điều kiện thứ hai là con người nên được giúp đỡ để phát triển những nhân cách tự thân của họ. Khả năng để vui hưởng sự cô độc, cũng như nhóm người làm việc chung tại nơi làm việc hoặc nơi khác, càng làm cho khả năng trải nghiệm luồng tư tưởng được gia tăng rất nhiều. Nếu những hoạt động mang tính sáng tạo làm phát sinh luồng tư tưởng, thì làm thế nào mà nhiều người sáng tạo lại liên quan đến những tâm trạng như buồn phiền, và được biết đến như là những người đã từng tự cho phép mình có thái độ hủy hoại bản thân, kể cả tự tử? Câu trả lời là hoặc những điều kiện thể lý, xã hội, hoặc tâm trí đang hỗ trợ họ đều rất không thuận lợi đối với bất cứ kiểu hạnh phúc nào, nhưng chỉ có những hoạt động sáng tạo của họ mới nâng họ vượt lên trên nỗi khổ tâm và đi vào luồng tư tưởng, bởi vì khi những khả năng của họ có vẻ như cạn kiệt, thì họ không chịu đựng nổi những hoàn cảnh của mình. Trong bản nghiên cứu Creativity (Tính sáng tạo) của mình, sau khi Bác sĩ C phỏng vấn và ngoài ra, ông còn nghiên cứu hàng trăm người sáng tạo trong tất cả những tầng lớp của cuộc đời, thì ông đưa ra những đề nghị sau đây để cải thiện tính sáng tạo cá nhân: Điều kiện cần thiết để củng
cố tính sáng tạo là gia tăng tính tò mò và sự quan tâm đến các sự việc chung quanh bạn. Những đề nghị của ông đối với một sự phát triển như vậy là: a/ Mỗi ngày, bạn hãy cố gắng ngạc nhiên trước điều gì đó, bằng cách ghi chú những sự khác biệt giữa kinh nghiệm này và kinh nghiệm khác; b/ Cố gắng ngạc nhiên đối với ít nhất một người mỗi ngày, bằng cách đối xử một cách không thể dự đoán hoặc đặt ra những câu hỏi bất ngờ; c/ Mỗi ngày đều viết ra những điều gây ngạc nhiên cho bạn, và bạn đã gây ngạc nhiên cho những người khác như thế nào, bởi vì việc viết ra các sự việc càng giúp làm sáng tỏ các sự việc trong tương lai; d/ Khi điều gì đó bật lên một tia sáng thú vị, hãy đi theo nó. Điều này có thể trở thành một sứ mạng của cuộc đời bạn. Để trau dồi luồng tư tưởng, Bác sĩ C khuyên điều sau đây: Buổi sáng, bạn hãy thức dậy với một mục tiêu để mong đợi một cách thích thú; nếu bạn làm bất cứ điều gì một cách tốt đẹp, thì nó trở nên thú vị – vì thế, hãy cố gắng làm thật nhiều việc như bạn có thể làm được. Để tiếp tục vui hưởng điều gì đó, bạn cần gia tăng tính phức tạp của nó – Do đó, chiến lược tốt nhất là dồn hết tâm trí vào các phương pháp rèn luyện mang tính phức tạp vô tận, và tiếp tục cải thiện sự làm chủ của bạn đối với đối tượng. Bạn cũng sẽ cần phải trau dồi một số thói quen phổ biến đối với những người sáng tạo, như chịu trách nhiệm về kế hoạch làm việc; dành thời gian để suy nghĩ và thư giãn; định hình không gian của mình, nghĩa là giữ cho môi trường càng thân thiện với những sinh hoạt của bạn càng tốt, và cơ hội sao lãng càng xa càng tốt; hãy khám phá những điều bạn thích và những điều bạn ghét về cuộc đời; hãy bắt đầu làm nhiều điều bạn thích hơn, ít điều bạn ghét hơn. Ông cũng khuyên bạn phát triển những nét sáng tạo, như phát triển điều gì bạn còn thiếu trong việc
đạt được những mục tiêu của mình, thay đổi từ sự cởi mở sang kín đáo, sao cho hoạt động đi tới một kết luận sáng tạo; nhắm đến tính sáng tạo vốn có không chỉ trong mọi hoạt động sáng tạo, mà còn trong tất cả mọi kỹ năng. Những người sáng tạo tìm được các phương cách để phát hiện các vấn đề mới chưa bao giờ liên quan đến những người khác, trước khi cố gắng giải quyết chúng. Để làm được như vậy, Bác sĩ C nói rằng bạn phải tìm được một phương cách để diễn tả những điều kích động mình, bởi vì “nói chung, các vấn đề sáng tạo nổi lên từ những lãnh vực nào của cuộc sống vốn quan trọng một cách cá nhân”. Kế tiếp, hãy nhìn vào các vấn đề từ càng nhiều quan điểm càng tốt, để có thể phát sinh những giải pháp phong phú, trước khi chọn lựa giải pháp nào phù hợp nhất. Hãy đi theo điều này bằng cách hình dung ra giải pháp, thực hiện nó, bởi vì không có giải pháp nào hoàn toàn không có nhiều thử nghiệm và cải tiến. Hầu hết các giải pháp đều có thể thực hiện với những cải thiện. Vì mục đích này, bạn hãy tạo ra càng nhiều ý tưởng càng tốt, khác biệt với nhau càng tốt, và cũng hãy cố gắng tạo ra những ý tưởng không chắc có thực. Bác sĩ C tin rằng một chương trình như vậy sẽ khởi sự cho bạn đi vào cuộc tìm kiếm sáng tạo của mình một cách luôn luôn chính xác.